HUYỀN KHÔNG PHI TINH (Phần 2)
HUYỀN KHÔNG PHI TINH
Chính Thần và Linh thần
Chính Thần
Như chúng ta đã
biết, trong Lạc Thư thì địa bàn phân bố của 9 số như sau:
Vì mỗi số vừa quản
thủ 1 vận (từ vận 1 tới vận 9), vừa làm bá chủ 1 khu vực, cho nên 1 khi tới vận
của số nào thì số đó được coi như Chính Thần đương vận, và khu vực có số đó cai
quản được coi là khu vực của Chính Thần trong vận đó.
Lấy thí dụ như vận
1 Thượng nguyên thì số 1 sẽ được coi là Chính Thần đương vận (tức vượng khí),
còn khu vực phía BẮC (tức phương KHẢM) sẽ được coi là khu vực của Chính Thần
trong vận đó. Tương tự như thế, khi bước sang vận 2 thì số 2 sẽ được coi là
Chính Thần của đương vận, và khu vực phía TÂY NAM (phương KHÔN) sẽ là khu vực
của Chính Thần trong vận đó...
Riêng đối với số 5
vì nằm tại trung cung, không có phương vị nhất định, nên khi tới vận 5 thì 10
năm đầu lấy phía TÂY NAM làm khu vực của Chính Thần, còn 10 năm cuối lấy khu
vực phía ĐÔNG BẮC làm khu vực của Chính Thần.
Vì Chính Thần là
khu vực có vượng khí của sơn mạch, cho nên khu vực này cần có núi cao, hoặc có
thực địa vững chắc. Nếu được như thế thì nhà cửa hoặc làng mạc hay thành phố...
sẽ được bình yên hay vượng phát trong nguyên, vận đó. Ngược lại, nếu khu vực
của Chính Thần mà có ngã ba sông (nơi 2 con sông nhập lại), hay có ao, hồ,
sông, biển lớn... thì nhà cửa hay làng mạc, thành phố đó sẽ phát sinh nhiều
hung họa trong nguyên vận đó. Do đó, khu vực của Chính thần không được có thủy,
nếu có sẽ chủ tai họa. Vì vậy, thủy nằm trong khu vực của Chính thần được gọi
là “LINH THỦY” (thủy thất vận chủ tai họa).
Thí dụ: vào vận 8
Hạ nguyên thì khu vực của Chính thần sẽ là khu vực phía ĐÔNG BẮC (vì đó là
phương vị của số 8). Cho nên nếu khu vực phía ĐÔNG BẮC của 1 căn nhà, 1 ngôi
làng hay 1 thành phố... mà có núi từ xa tiến tới, hay có dải đất dài từ phía đó
tiến tới thì căn nhà hoặc ngôi làng hay thành phố đó trong vận 8 sẽ được sung
túc, làm ăn thịnh vượng, yên ổn. Ngược lại, nếu khu vực đó lại có cửa biển,
hoặc nơi tụ hội của 2 dòng sông, hay có sông lớn chảy qua... thì căn nhà hoặc
ngôi làng hay thành phố đó sẽ gặp nhiều hung họa trong vận 8.
Linh thần
Là khu vực đối diện
với khu vực của Chính Thần. Lấy thí dụ như trong vận 1 thì khu vực của Chính
Thần là ở phía BẮC, cho nên khu vực của Linh thần sẽ là ở phía NAM. Do đó, dựa
vào vị trí những khu vực của Chính thần mà ta sẽ có những khu vực của Linh Thần
theo từng vận như sau:
Riêng với Vận 5 vì
trong 10 năm đầu dùng khu vực phía TÂY NAM làm Chính Thần, nên lấy khu vực phía
ĐÔNG BẮC làm Linh Thần. Còn trong 10 năm cuối dùng khu vực phía ĐÔNG BẮC làm
Chính Thần, nên lấy khu vực phía TÂY NAM làm Linh Thần.
Một vấn đề trọng
yếu trong việc xác định phương vị của Linh Thần là khu vực này cần có thủy cửa
sông, hồ, cửa biển..., nếu được như thế thì những căn nhà hay những làng mạc,
đô thị... sẽ trở nên phồn thịnh, sầm uất trong vận đó. Cho nên thủy nằm tại khu
vực của Linh Thần lại được gọi là “CHÍNH THỦY” (tức thủy tốt hay vượng thủy).
Ngược lại, nếu khu vực này lại có long hành tiến tới, hay dải đất chạy từ đó
tới thì sẽ chủ suy bại hoặc có nhiều tai biến.
Thí dụ như trong
vận 8, phương vị của Linh thần sẽ nằm ở phía TÂY NAM. Do đó, nếu khu vực đó của
nhà ở hay làng mạc, đô thị... mà có ao, hồ, sông, hoặc cửa biển... thì rất tốt,
chủ vượng phát về mọi mặt. Ngược lại, nếu khu vực đó lại có thế núi hay thế đất
tiến tới thì căn nhà hoặc ngôi làng hay đô thị đó sẽ gặp nhiều tai biến, hung
họa.
Những trường hợp ngoại
lệ
Vấn đề khảo sát
những khu vực của Chính Thần, Linh Thần, cũng như những yếu tố chúng cần có hay
không thể có... chủ yếu là dùng để luận đoán vận khí hưng, suy của 1 khu vực, 1
thành phố hay 1 quốc gia... Còn riêng với vận khí của nhà ở thì trước tiên vẫn
phải xem xét khu vực của các khí sinh, vượng hay suy, tử là nằm tại phương nào?
Sau đó mới phối hợp với các phương vị của Chính Thần, Linh Thần mà tìm ra khu
vực nào nên có thủy, khu vực nào nên có núi..., chứ không nhất thiết là khu vực
của Chính Thần phải có núi, còn khu vực của Linh Thần phải có thủy.
Thí dụ 1: Nhà
tọa Mùi hướng Sửu, nhập trạch trong vận 8.
Nếu an tinh bàn
trạch vận thì sẽ thấy hướng tinh số 8 tới phía ĐÔNG BẮC, còn hướng tinh số 5
tới phía TÂY NAM. Nếu theo những nguyên lý về Chính Thần và Linh Thần ở trên
thì phía ĐÔNG BẮC cần có núi, còn phía TÂY NAM cần có thủy. Nhưng vì vượng khí
(của Hướng tinh) số 8 đang chiếu tới phía ĐÔNG BẮC, nên khu vực này của căn nhà
lại cần có thủy, chứ không được có núi. Nếu có núi ắt tài lộc của gia đình sẽ
suy bại, còn nếu có thủy thì vấn đề làm ăn, sinh sống mới được tốt đẹp. Ngược
lại, khu vực phía TÂY NAM tuy là khu vực của Linh Thần, nên theo nguyên lý thì
cần Thủy. Nhưng vì khu vực này có tử khí (của Hướng tinh) Ngũ Hoàng chiếu tới,
cho nên lại không được có thủy. Nếu có thủy tất chủ đại hao tán tiền bạc, kèm
thêm bệnh tật hoặc tai họa nghiêm trọng cho người trong nhà. Còn nếu khu vực
này có núi thì mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp.
Thí dụ 2: Nhà
tọa Ngọ hướng Tý, nhập trạch trong Vận 8.
Nếu an tinh bàn cho
trạch vận thì sẽ thấy Hướng tinh số 7 tới khu vực phía ĐÔNG BẮC, còn hướng tinh
số 1 sẽ tới khu vực phía TÂY NAM. Vì số 7 là suy khí của Vận 8, nên không thể
có thủy tại nơi đó. Khu vực này cũng là khu vực của Chính Thần, cần có núi thì
tốt, có thủy chủ phá tài. Cho nên khu vực phía ĐÔNG BẮC của nhà này cần có núi
mới tốt, nếu có thủy thì xấu. Ngược lại, Hướng tinh 1 là sinh khí của vận 8 tới
phía TÂY NAM, nên nơi này cần có thủy. Khu vực này cũng là khu vực của Linh
Thần, nếu gặp thủy sẽ chủ phát về tài lộc. Cho nên khu vực phía TÂY NAM của nhà
này nếu có thủy là tốt, có núi là xấu.
Cho nên đối
với nhà cửa thì điều quan trọng vẫn và phương vị của các phi tinh,
rồi sau đó mới phối hợp với nguyên lý của Chính Thần, Linh Thần mà tìm ra những
nơi cần có núi, những nơi cần có thủy. Có như thế mới bảo đảm cho mọi sự được
hoàn mỹ, tốt đẹp. Chứ không thể áp dụng những nguyên lý về Chính Thần hay Linh
Thần 1 cách mày móc, vì như thế sẽ có thể phạm phải nhiều sai làm đáng tiếc mà
chuốc lấy nhiều tai họa.
Hợp Thập
Trong vấn đề chọn
phương hướng cho nhà cửa hay phần mộ thì có 2 cách thông thường là chọn chính
hướng sao cho được cuộc “Vượng Sơn, Vượng Hướng”, hoặc chọn kiêm hướng để dùng
Thế Quái hầu đem vượng khí tới tọa-hướng. Ưu điểm của 2 cách này là sẽ giúp cho
tài, đinh của 1 căn nhà được vượng phát nhanh chóng, nếu chọn thời điểm xây
nhà, lập mộ đúng lúc thì có thể “táng (hay xây) vào tháng DẦN (tức tháng 1 Â.L)
thì tháng MÃO (tức tháng 2 Â.L) phát”.
Nhưng khuyết điểm
của nó là thời gian hưng vượng lại rất ngắn ngủi, đa số chỉ phát trong khoảng 1
vận (tức 20 năm) mà thôi. Nếu muốn tiếp tục phát thì thường là cứ sau 1 vận phải
tu sửa lại nhà cửa hay phần mộ, kẻo nếu không thì tai họa sẽ ập tới như trường
hợp Liêu kim Tinh (tức Liêu công) thời Tống.
Liêu kim Tinh xuất
thân hàn vi, phải đi ở cho nhà của 1 đại quan là Trương minh Thúc. Vợ của họ
Trương là con gái của Ngô cảnh Loan, 1 danh sư Phong thủy thời đó, thấy Liêu
công thông minh, tướng mạo khôi vĩ mà phải chịu cảnh cơ cực, nên mới đem những
bí lục của phụ thân truyền cho. Sau khi học xong, vì quá nghèo, Liêu công bèn
tìm địa huyệt đắc “Vượng sơn, vượng hướng” mà cải táng mồ mả cho tổ tiên. Từ
đó, gia đình ông đinh, tài đều vượng phát, danh tiếng nổi như cồn, được dân
chúng vùng đó coi như 1 vị thánh, ngày nào cũng mời ông đi xem Phong thủy.
Chuyện này đến tai 1 gia đình thế phiệt, họ liền mời ông về, dùng lễ thượng
khách mà hậu đãi, chỉ mong ông tìm cho họ những cuộc đất tốt. Trong 18 năm
trời, Liêu công đã tìm được 74 cuộc đất quý. Lúc đó cũng đã gần hết thời hạn
vượng phát mồ mả của tổ tiên mình, nên Liêu công mới muốn xin về để tìm đất tu
sửa hay cải táng lại. Nhưng nhà kia tham lam, cứ nhất quyết giữ ông ở lại thêm
4 năm nữa mới cho về. Khi ông về đến nơi thì đại họa đã xảy ra, tất cả các con
đều đã chết, chỉ còn bà vợ già và 2 đứa cháu nhỏ. Liêu công vì quá đau buồn nên
từ đó sinh bệnh rồi chẳng bao lâu cũng tạ thế.
Nói như vậy không
phải là mọi cuộc “Vượng sơn, vượng hướng” đến khi thất vận đều sẽ bị tai họa
thảm khốc như thế, mà điều đó còn tùy thuộc vào địa hình và Phi tinh của từng
địa huyệt. Nhưng nó cho thấy khuyết điểm của cuộc “Vượng sơn, vượng hướng” là
không được lâu dài, và vì vậy những nhà Phong thủy sau này đã tìm kiếm những
cách cục khác có khả năng bảo đảm sự vượng phát của 1 gia đình lâu dài hơn cuộc
“Vượng sơn, vượng hướng”. Một trong những cách cuộc đó là tình huống “HỢP
THẬP”.
Nói “Hợp Thập” là
khi trong các vận-sơn-hướng tinh, có 2 trong 3 số đó cộng với nhau (hợp) thành
10 (thập). Có 2 tình thế “Hợp Thập” xảy ra giữa Vận, Sơn và Hướng tinh như sau:
1/ Vận tinh và Sơn
tinh cộng lại thành 10: Như trong một cung có các vận-sơn-hướng tinh 9-1-3, thì
vận tinh 9 + Sơn tinh 1 = 10, nên đó là tình huống “Hợp Thập” giữa Vận tinh và
Sơn tinh.
2/ Vận tinh và
Hướng tinh cộng lại thành 10: Như trong một cung có các vận-sơn-hướng tinh
8-6-2. Vì Vận tinh 8 + Hướng tinh 2 = 10, nên là sự “Hợp Thập” giữa Vận tinh và
Hướng tinh.
Cả 2 trường hợp kể
trên đều đòi hỏi tất cả các cung phải có sự “Hợp Thập” thì mới có hiệu lực.
Những trường hợp này còn được gọi là “toàn bàn Hợp thập”. Nếu trong trạch bàn
chỉ có sự “Hợp Thập” ở 1, 2 cung thì không đáng kể lắm.
- Thí dụ 1:
Nhà tọa TÝ, hướng NGỌ (tức 180 độ), nhập trạch trong vận 7.
Nếu lấy trạch vận
thì thấy tại tất cả các cung, Vận tinh và Sơn tinh đều cộng với nhau thành 10.
Đây là trường hợp toàn bàn Hợp thập giữa Vận tinh và Sơn tinh.
- Thí dụ 2: Nhà
tọa NGỌ hướng TÝ (tức 0 độ), nhập trạch trong vận 7.
Nếu lấy trạch vận
thì thấy tại tất cả các cung, Vận tinh và Hướng tinh đều cộng với nhau thành
10. Đây là trường hợp toàn bàn Hợp thập giữa Vận tinh và Hướng tinh.
Có tất cả 12 tình
huống toàn bàn Hợp thập giữa Vận tinh với Sơn tinh, cũng như 12 tình huống Hợp
thập giữa Vận tinh với Hướng tinh như sau:
* Giữa Vận tinh với
Sơn tinh:
- Vận 1: Tọa TỐN
hướng CÀN, tọa TỴ hướng HỢI.
- Vận 3: Tọa NGỌ
hướng TÝ, tọa ĐINH hướng QUÝ.
- Vận 4: Tọa CANH
hướng GIÁP.
- Vận 6: Tọa GIÁP
hướng CANH.
- Vận 7: Tọa TÝ
hướng NGỌ, tọa QUÝ hướng ĐINH.
- Vận 8: Tọa SỬU
hướng MÙI, tọa MÙI hướng SỬU.
- Vận 9: Tọa CÀN
hướng TỐN, tọa HỢI hướng TỴ.
* Giữa Vận tinh với
Hướng tinh:
- Vận 1: Tọa CÀN
hướng TỐN, tọa HỢI hướng TỴ.
- Vận 2: Tọa SỬU
hướng MÙI, tọa MÙI hướng SỬU.
- Vận 3: Tọa TÝ
hướng NGỌ, tọa QUÝ hướng ĐINH.
- Vận 4: Tọa GIÁP
hướng CANH.
- Vận 6: Tọa CANH
hướng GIÁP.
- Vận 7: Tọa NGỌ
hướng TÝ, tọa ĐINH hướng QUÝ.
- Vận 9: Tọa TỐN
hướng CÀN, tọa TỴ hướng HỢI.
Ngoài hai tình
huống Hợp thập giữa Vận-Sơn-Hướng tinh như ở trên thì còn một tình huống Hợp
thập đặc biệt khác. Đó là khi trong một trạch bàn, Sơn tinh của một cung cộng
với Hướng tinh của cung đối diện thành 10. Trường hợp này cũng đòi hỏi Sơn tinh
của tất cả 8 cung (tức chỉ trừ Sơn tinh tại trung cung) đều phải “hợp” với
Hướng tinh của cung đối diện thành 10. Đây là trường hợp toàn bàn Hợp thập giữa
Sơn và Hướng tinh.
- Thí dụ: nhà tọa
CẤN hướng KHÔN (tức hướng 225 độ), nhập trạch trong vận 5. Nếu lấy trạch vận
thì ta thấy:
- Sơn tinh 5 ở phía
TÂY NAM + Hướng tinh 5 ở phía ĐÔNG BẮC = 10;
- Sơn tinh 1 ở phía
TÂY + Hướng tinh 9 ở phía ĐÔNG = 10.
- Sơn tinh 9 ở phía
TÂY BẮC + Hướng tinh 1 ở phía ĐÔNG NAM = 10.
- Sơn tinh 4 ở phía BẮC + Hướng
tinh 6 ở phía NAM = 10.
- Sơn tinh 2 ở phía
ĐÔNG BẮC + Hướng tinh 8 ở phía TÂY NAM = 10.
- Sơn tinh 6 ỏ phía
ĐÔNG + Hướng tinh 4 ở phía TÂY = 10.
- Sơn tinh 7 ở phía
ĐÔNG NAM + Hướng tinh 3 ở phía TÂY BẮC = 10.
- Sơn tinh 3 ở phía
NAM + Hướng tinh 7 ở phía BẮC = 10.
Ngoài ra nếu nhìn
vào trung cung thì cũng thấy Sơn tinh 8 + Hướng 2 = 10, nên đây là cách toàn
bàn Hợp thập giữa Sơn tinh và Hướng tinh.
Vì đây là cách cục
đặc biệt, nên chỉ có 6 trường hợp, và đều xảy ra trong Vận 5 cho những nhà có
tọa-hướng CẤN-KHÔN, KHÔN-CẤN, THÂN-DẦN, DẦN-THÂN, GIÁP-CANH, CANH-GIÁP mà thôi.
TÁC DỤNG CỦA HỢP
THẬP
Hợp thập tức là
dùng Thập số (số 10) để thông với Ngũ Hoàng ở trung cung mà tạo thành thế
“Thiên tâm Thập đạo” của Lạc thư và Hậu thiên Bát quái. Vì Thập (10) là âm Kỷ,
thuộc Địa, còn Ngũ (5) là dương Mậu, thuộc Thiên, nên khi lấy Thập (10) ở tám
cung mà phối với Ngũ (5) tại Thiên tâm (chính giữa) thì sẽ tạo thành sự kết hợp
giữa Thiên- Địa, Phu – Phụ, Âm - Dương, hay như Thẩm trúc Nhưng nói là “tượng
trưng cho sự thần diệu, sự thần diệu dùng số để biểu hiện, một Âm, một Dương là
đạo vậy. Hai khí giao cảm mà hóa sinh vạn vật, sinh sinh không ngừng, biến hóa
vô tận...công dụng của Hợp thập đều ghi cho sức của Mậu-Kỷ, khí vận mà được
điều này thì mọi thứ hanh thông, vận vận tốt đẹp”.
Cho nên nơi nào có
Hợp thập là có thể làm cho thông khí (còn gọi là Thông quái), toàn bàn đắc Hợp
thập tức có thể làm cho thông khí hết 8 cung, khiến cho toàn cục đang suy (vì
không đắc vượng khí tới tọa-hướng) lại chuyển thành vượng mà phát phúc, lộc
song toàn.
Tuy nhiên,không
phải tất cả mọi nhà đắc cách Hợp thập đều có thể xử dụng được nó, mà chỉ có
những nhà hội đủ những yếu tố cần thiết (sẽ nói trong 1 dịp khác) mới có thể
vượng phát được, còn nếu không thì cũng chỉ tầm thường hoặc suy bại mà thôi.
Một số người cho
rằng những nhà có sự Hợp thập giữa Vận tinh và Sơn tinh thì sẽ vượng về nhân
đinh, nếu có Vận tinh với Hướng tinh Hợp thập thì sẽ phát về tài lộc. Điều này
có lẽ chỉ là sự suy diễn theo quan điểm “Sơn quản nhân đinh, Thủy quản tài lộc”
mà ra. Nhưng họ không để ý rằng 1 khi đã có tình huống Hợp thập (bất kể giữa
Vận tinh với Sơn hay Hướng tinh) thì toàn bàn đã thông khí được với trung cung
(tức Thiên tâm), 2 khí âm-dương Mậu-Kỷ đã tác hợp nên Sơn vượng thì Hướng cũng
vượng và ngược lại. Chính vì vậy mà Thẩm trúc Nhưng mới nói ”khí vận mà được
điều này thì mọi thứ hanh thông, vận vận tốt đẹp”, chứ không chỉ thuần 1 vấn đề
là vượng đinh hay vượng tài không được.
Sau cùng, ngoài những cách Hợp thập của Phi tinh đã
nêu trên thì còn có cách Hợp thập theo hình cục của Loan đầu. Theo cách này thì
nếu lai long ở phía sau và hướng thủy ở phía trước có thể hợp với tọa-hướng của
căn nhà (hay mộ huyệt) để tạo thành 1 đường thẳng, nhà lại nằm tại trung tâm
của thế đất để lấy Thiên tâm, tức địa thế 2 bên đã được phân ra đồng đều thì
cũng là cách Hợp thập theo địa hình. Tuy nhiên cách này đòi hỏi tọa-hướng của
căn nhà cũng phải đắc vượng khí của Sơn-Hướng tinh, tức là trong thực chất cũng
chỉ là 1 trường hợp “Vượng sơn, vượng hướng” mà thôi. Nhưng do hình cục đắc
“Thiên tâm thập đạo” nên lúc đương vận có thể phát mạnh hơn những cuộc “Vượng
sơn, vượng hướng” bình thường, mà đến lúc thất vận cũng không đến nỗi suy tàn
nhanh chóng. Nhưng muốn đắc cách Hợp thập theo hình cục thì nhà cũng phải lập
tọa-hướng theo đơn hướng, chứ không thể dùng kiêm hướng. Nếu kiêm hướng ắt thế
Thiên tâm thập đạo sẽ bị phá bể mà phát sinh ra nhiều hung họa. Cho nên chẳng
thà là lập theo nguyên tắc “Vượng sơn, vượng
hướng” như bình thường, hoặc dùng phương pháp Thế quái, chứ đừng quá tham lam
chọn cách Hợp thập để chuốc lấy nhiều tai họa sau này.
Tam Ban Xảo Quái
Trong những cách
cục có thể giúp cho trạch vận của căn nhà được lâu dài, bền bỉ thì ngoài cách
“Hợp Thập” còn có những cách cục “Tam ban quái”.
Nói “Tam ban quái”
là vì trong toàn trạch bàn, các vận-sơn-hướng tinh tại mỗi cung hoặc là nối
liền nhau thành 1 chuỗi như 1-2-3, 2-3-4, 3-4-5, 4-5-6, 5-6-7, 6-7-8, 7-8-9,
8-9-1, 9-1-2, hoặc là tạo thành những chuỗi số cách đều nhau 3 số như 1-4-7,
2-5-8, 3-6-9. Cách có những chuỗi số nối liền nhau được gọi là “Tam ban quái”,
còn cách có những chuỗi số cách đều nhau 3 số được gọi là “Phụ mẫu Tam ban
quái”.
Trong “Phụ mẫu Tam
ban quái” còn được chia ra làm 2 loại là “Thất tinh đả kiếp” và “Tam ban Xảo
quái”. Riêng trong mục này chỉ xin bàn qua “Tam ban Xảo quái” mà thôi.
Nếu lập trạch vận
thì ta thấy tất cả các cung đều có 1 trong 3 cặp số 1-4-7, 2-5-8 hay 3-6-9, cho
nên căn nhà này toàn bàn là cuộc Tam ban quái, và được coi là đắc “Tam ban Xảo
quái”.
Vì cách cục như
trên là rất hiếm, nên trong tổng số 1944 cách cục của Phi tinh thì chỉ có 16
cách là hội đủ điều kiện của “Tam ban Xảo quái” như sau:
- Nhà tọa CẤN hướng
KHÔN: trong các vận 2, 5 và 8.
- Nhà tọa KHÔN
hướng CẤN: trong các vận 2, 5 và 8.
- Nhà tọa DẦN hướng
THÂN: trong các vận 2, 5 và 8.
- Nhà tọa THÂN
hướng DẦN: trong các vận 2, 5 và 8.
- Nhà tọa SỬU hướng
MÙI: trong các vận 4 và 6.
- Nhà tọa MÙI hướng
SỬU: trong các vận 4 và 6.
Đối với Huyền không
Phi tinh, những nhà đắc “Tam ban Xảo quái” được coi là kỳ diệu, vì chẳng những
là mỗi con số được cách nhau 3 số, “giống như 1 chuỗi ngọc đính liền nhau,
(thuận hay nghịch đều cách 3), hoàn toàn tự nhiên, không chút gượng ép” như
Trạch vận Tân án đã nói, mà còn vì trong 3 cặp số đó, mỗi cặp đều có 1 số tiêu
biểu cho Thượng Nguyên – Trung Nguyên – Hạ Nguyên. Như 1-4-7 thì 1 là số của Thượng
nguyên, 4 là số của Trung nguyên, 7 là số của Hạ nguyên. Với cặp 2-5-8 thì 2 là
số của Thượng nguyên, 5 là số của trung nguyên, 8 là số của Hạ nguyên. Với cặp
3-6-9 thì 3 là số của Thượng nguyên, 6 là số của Trung nguyên, 9 là số của Hạ
nguyên. Các số 1-4-7 lại đều là những số khởi đầu của Tam nguyên, 2-5-8 đều là
những số giữa, 3-6-9 đều là những số cuối, nên vừa có thể làm cho tương thông
(hay thông khí) hết cả 3 Nguyên, lại vừa không bị rối loạn hoặc pha tạp. Những
cặp số có thể làm thông khí cả Tam Nguyên há không phải là lâu dài hay sao? Lại
không bị rối loạn hoặc pha tạp, há không phải là quý khí hay sao? Cho nên những
nhà đắc được cuộc “Tam ban Xảo quái” chẳng những vận khí sẽ rất lâu dài trong
suốt Tam Nguyên Cửu Vận, mà vì còn đắc quý khí, nên nếu biết cách xử dụng thì
dòng họ đời đời sẽ phú quý, danh gia vọng tộc. Nếu không biết cách xử dụng thì
cũng chỉ bình thường, thậm chí có thể mang lấy nhiều tai họa tùy theo từng
trường hợp.
Những trường hợp Tam
Ban Quái phát sinh tai họa
Tuy một số nhà đắc
cách “Tam ban Xảo quái” chẵng những đã không gặp được điều gì tốt lành, lại bị
nhiều tai họa liên tiếp xảy ra, hại người tốn của... là do những nguyên nhân
sau đây:
1) Nhà thường chỉ
có cửa trước, chứ không có cửa sau. Lý do là vì những nhà đắc “Tam ban Xảo
quái” hầu như bao giờ cũng gặp trường hợp “Thượng Sơn, Hạ Thủy”, vượng tinh của
Hướng sẽ tới phía sau nhà, còn vượng tinh của Sơn sẽ tới phía trước. Nếu phía
sau nhà không có cửa hoặc hồ tắm... thì vượng tinh của Hướng đã bị “Thượng
Sơn”, nên tài lộc sẽ gặp nhiều khó khăn, bế tắc. Nếu như phía trước nhà đã có
cửa mà còn trống, thoáng, thì vượng tinh của Sơn đã bị “Hạ thủy”, chủ phá bại
về nhân đinh. Đó là chưa kể trong 16 cách cuộc đắc “Tam ban Xảo quái” thì đa số
lại còn bị Phản-Phục Ngâm, nên làm sao tránh được tai họa? Cho nên tối thiểu là
nhà phải có cổng, cửa, hay thủy tại khu vực có vượng khí của Hướng tinh, dùng
cách “Nhất chính đương quyền” để hóa giải những cuộc “Thượng Sơn, Hạ Thủy” và
Phản-Phục ngâm thì mới có thể tránh được tai họa (nên nhớ là cách “Thượng Sơn,
Hạ Thủy” của Phi tinh chỉ là về hình thức, tức là vì Hướng tinh chiếu tới phía
sau nhà, nên trên danh nghĩa thì nó đã bị “lên núi” tức “Thượng Sơn”. Nhưng nếu
phía sau nhà có thủy hoặc cửa ra vào thì nó đã “gặp nước”, nên biến thành cách
“Đáo Hướng”, chứ không còn là cách “Thượng Sơn” nữa. Tương tự với Sơn tinh tới
hướng trên danh nghĩa là “Hạ Thủy”, nhưng nếu phía trước có núi hay nhà cao thì
Sơn tinh đã “gặp núi”, nên lại biến thành cuộc “Đáo Sơn”. Còn về Phản-Phục ngâm
thì chúng chỉ gây tai họa trong trường hợp là khí suy, tử mà thôi. Nên nếu
phương có vượng khí mà có cửa hoặc sông hồ... thì cái họa do Phản-Phục ngâm
cũng không còn nữa).
2) Phía sau nhà đã
không có cửa, lại còn có núi cao hay nhà cao. Phía trước nhà đã có cửa, lại còn
thêm trống, thoáng thì tai họa càng nặng.
3) Nếu đã phạm các
điều ở trên, mà hướng nhà lại kiêm nhiều, vị trí cửa, bếp, bàn thờ... còn phạm
Không vong thì tai họa càng nghiêm trọng.
4) Phía sau nhà đã
không có cửa hay thủy, còn cửa trước tuy không nằm ngay đầu hướng, nhưng lại
nằm trong 1 khu vực làm tiết thoát nguyên khí của hướng tinh nơi đầu hướng (tức
Hướng tinh ở hướng phải sinh cho Hướng tinh nơi cửa) thì cũng gặp nhiều tai
họa.
5)Những nhà tuy
phía sau có cửa, nhưng lại bị nhà hàng xóm cao hoặc áp sát, phía trước tuy
không có cửa, nhưng có sân trống hay thủy... thì cũng vẫn là cách cục phá bại
và gặp nhiều tai họa.
Gần đây, có 1 số
nhà Phong thủy lại cho rằng những nhà đắc “Tam ban Xảo quái” cần phải vuông
vức, để tất cả các cung của Bát quái đều nằm gọn trong căn nhà và chiếm 1 phần
bằng nhau, chứ không thể có cung nào bị lọt ra ngoài nhà hay chiếm 1 phần quá
ít so với những cung khác!!! Họ cho rằng chỉ có những nhà như thế mới phát
phúc, lộc, còn những nhà không vuông vức thì sẽ gặp nhiều tai họa. Tuy nhiên,
nếu gặn hỏi lý do thì họ thường chỉ trả lời được rằng nếu các cung không đồng
đều, hay có 1, 2 cung lọt ra ngoài cửu cung thì Tam ban quái sẽ không đầy đủ,
nên khí sẽ “không thông” mà gây ra tai họa. Nhưng thật ra nếu xét kỹ “tiêu
chuẩn” này thì có thể nhận thấy là ngay chính họ cũng không biết lý do tại sao
những nhà đắc “Tam ban Xảo quái” mà cũng vẫn bị họa, nên mới đưa ra “tiêu
chuẩn” nhà cần vuông vức. Và vì không tìm được lý do giải thích, cho nên họ mới
xoay sang “kết hợp” đủ mọi lý thuyết khác để tìm câu giải đáp như sau:
- Về hình cục loan
đầu: thì những gì vuông vức đều được coi là tốt đẹp, làm cho khí lưu thông điều
hòa, còn những gì méo mó, lệch lạc đều bị coi là xấu, là làm cho khí bị bế tắc
hoặc trì trệ, thiên lệch... mà làm hỏng cuộc “Tam ban Xảo quái”.
- Về vận khí: hầu
hết các cuộc đắc “Tam ban Xảo quái” đều xuất hiện trong các vận 2, 5, 8 tức là
Thỗ vận, nên nếu nhà vuông vức thì tướng nhà sẽ hợp với nguyên vận (hình vuông
thuộc Thổ) mà làm cho tốt đẹp.
- Về phương vị: vì
chỉ có những nhà nằm trong tọa hướng CẤN-KHÔN, KHÔN-CẤN (tức trục ĐÔNG BẮC
–TRUNG CUNG - TÂY NAM) là đắc “Tam ban Xảo quái”, mà Ngũ hành của trục này đều
thuộc Thổ, cho nên hình dáng của căn nhà mới “cần” vuông vức để hợp với Ngũ
hành của tọa-hướng và trung cung mà giúp cho thông khí hoặc tăng thêm cái tốt,
chế hóa được cái xấu...
Tuy nhiên trên thực
tế có rất nhiều nhà đắc “Tam ban Xảo quái”, lại vuông vức nhưng vẫn gặp tai họa
như 1 số trường hợp dưới đây:
- Trường hợp 1: nhà
tọa SỬU hướng MÙI (210 độ), nhập trạch trong vận 6 (1965). Nhà hình chữ nhật,
chiều dài của mặt tiền là 9m, chiều sâu 4m 5, có cửa trước tại khu vực phía TÂY
NAM, cửa hông tại khu vực phía TÂY. Phía sau không có cửa, chỉ có nhà hàng xóm
áp sát ngay sau tường.
Nếu lập tinh bàn
thì thấy có vượng khí Lục bạch của Hướng tinh tới phía sau, cửa trước có hướng
tinh Cửu Tử, cửa hông có Hướng tinh Ngũ Hoàng. Sau khi vào ở được 2 năm thì
người ông nội mất, sau đó 8 năm thì người cha mất (lúc đó mới có 49 tuổi). Về
kinh tế thì gia cảnh ngày 1 túng thiếu, trong nhà luôn có người bệnh hoạn.
- Trường hơp 2
(trong Trạch vận Tân án, trang 412): nhà tọa MÙI hướng SỬU kiêm KHÔN-CẤN 3 độ
(tức hướng 33 độ), nhập trạch năm CANH NGỌ (1930, tức thuộc vận 4). Trong sách
không nói kích thước bao nhiêu, nhưng theo hình vẽ thì nhà hình vuông. Phía sau
không có cửa, ở hướng cũng không có cửa, chỉ có 1 cửa duy nhất nằm tại phương
KHẢM để ra, vào mà thôi.
Nếu lập tinh bàn
thì thấy vượng khí của Hướng tinh tới phía sau, phía trước có hướng tinh Nhất
bạch, nơi cửa ra vào có Hướng tinh Tam bích. Nhà này sau khi vào ở làm ăn thất
bại, hao tài tốn của, xung đột với khách hàng, lại còn bị thầy Phong thủy tiên
đoán “sẽ có giặc cướp đến quấy nhiễu, hoặc bị kẻ xấu vu khống khiến phải hao
tổn nhiều tiền của”, nên khuyên 1 là làm cửa và đường đi thông phía sau, 2 là
“tìm ngay 1 căn nhà khác để thuê và chuyển đến sẽ tránh được tổn thất”.
- Trường hợp 3
(cũng trong Trạch vận Tân án, trang 202): nhà của 1 đại phú gia, xây dựng vào
vận 2, tọa CẤN hướng KHÔN (tức hướng TÂY NAM – 225 độ). Đây là 1 dinh thự “có
quy mô hùng tráng, trông như lâu đài vua chúa”. Nhà có cổng, cửa ra vào tại khu
Nếu lập tinh bàn
thì sẽ thấy phía ĐÔNG BẮC đắc vượng khí Nhị Hắc, phía NAM đắc sinh khí Tam
bích, nên tuy trong sách không vẽ hình dáng ra sao, nhưng trong vận 2, vượng
khí chiếu đến phía ĐÔNG BẮC, mà nơi này có đại thủy mênh mông, nên “phát đạt vô
hạn, tiến triển mạnh mẽ, có thể nói là nhà phát phúc duy nhất trên quần đảo”.
Qua vận 3, hướng tinh Nhị Hắc tuy đã biến thành thoái khí, nhưng cửa khẩu nơi
phía NAM lại đón được vượng khí, nên “vẫn tiếp tục phát triển thịnh vượng như
vận trước”. Cuối vận 3, vượng khí đã hết, công việc làm ăn gặp thất bại nặng,
sự nghiệp trong phút chốc ra tro, chủ nhân đau buồn mà chết. Nhìn vào trạch vận
này, Thẩm điệt Dân tiên sinh (tức con trai của Thẩm trúc Nhưng) đã từng nhận
định:”Toàn bộ cục diện này hợp thành Tam ban quái, nên vận 2 đại vượng, vận 3
vẫn có lợi. Nhưng khi sắp sang vận 4 thì sẽ thất bại nặng, chỉ e còn có tai họa
khác đáng sợ hơn”.
- Trường hợp 4: nhà
tọa KHÔN hướng CẤN kiêm THÂN-DẦN 5 độ (tức hướng ĐÔNG BẮC – 50 độ). Xây trong
vận 8, vào ở từ đầu năm 2006, nhà trên tầng thứ 5 của 1 chung cư lớn. Cầu thang
chung của tầng lầu nằm tại khu vực phía ĐÔNG NAM (so với căn hộ), từ đó đi vòng
ra khu vực phía ĐÔNG rồi tới phía ĐÔNG BẮC trước nhà. Cửa trước nằm trong 2
cung SỬU-CẤN (đều thuộc ĐÔNG BẮC), cửa sau ra ban công (balcony) nằm trong
khoảng giữa 2 cung KHÔN-ĐOÀI (nhưng chủ yếu tại KHÔN). Bếp nằm tại khu vực phía
BẮC. Nhà này khá vuông vức, chiều dài 9m, chiều rộng 7m.
Nếu lập tinh bàn
của căn nhà thì thấy phía ĐÔNG NAM có 4-1 đồng cung, nơi đó có cầu thang chung
cho cả tầng lầu nên động khí mạnh, chủ người trong nhà có bằng cấp, công việc
và tài lộc ổn định. Cửa sau đắc vượng khí Bát bạch, nhưng vì không có đường dẫn
khí nên chỉ tạm được chứ không tốt lắm. Cửa trước gặp hướng tinh Ngũ Hoàng nên
chủ tai họa, bệnh tật. Bếp nằm nơi phía BẮC có hướng tinh Thất xích nên khí
huyết kém, có tai họa về đường con cái. Chính vì vậy mà sau khi vào ở thì người
vợ mắc bệnh về khí huyết và bị hư thai.
Qua 4 trường hợp
trên, ta thấy ngay cả đối với những nhà đắc “Tam ban Xảo quái” thì họa, phúc
vẫn là do cổng, cửa hay những phương vị có sơn-thủy... quyết định, chứ không
phải là do nơi hình dạng của căn nhà có vuông vức hay không. Ngay cả trong
trường hợp 3 tuy không biết hình dạng căn nhà như thế nào, nhưng nếu nó thiên
lệch thì tại sao trong vận 2 và 3 vẫn vượng phát, cực thịnh 1 thời? Còn nếu nó
vuông vức thì tại sao khi sắp qua vận 4 cơ nghiệp lại hóa thành tro, bụi? Cho
nên nguyên do tạo ra họa, phúc cũng vẫn là cổng, cửa và những phương vị có Son,
Thủy... mà thôi. Ngoài ra, có 1 vài trường hợp nhà đắc “Tam ban Xảo quái” cũng
đòi hỏi nhà cần vuông vức, nhưng là để thỏa mãn những yếu tố khác, chứ hoàn
toàn không liên quan gì tới cách cục này cả. Sau cùng, tuy trong lý thuyết
thường nói những nhà hay mộ đắc cách này đều sẽ được “thông khí” và phát suốt
Tam Nguyên Cửu Vận, nhưng thật ra muốn đạt được sự “thông khí” thì cần phải
thỏa mãn 1 số điều kiện cần thiết thì phúc lộc mới được trường cửu, lâu dài.
Vấn Đề Quân Bình
Thủy-Hỏa
1) Từ Tiên thiên tới
Hậu thiên Bát quái:
Biết rằng vũ trụ
lúc ban đầu chỉ là 1 khoảng trống vô hình, đến khi có Trời-Đất xuất hiện rồi
mới hình thành mọi hiện tượng như ngày, đêm, sấm chớp, gió mưa mà tạo nên đồi
núi, sông, hồ... Cho nên Tiên thiên Bát quái do Phục Hy đặt ra mới xếp quẻ CÀN
(Trời) ở phía trên, quẻ KHÔN (Đất) ở phía dưới, ngụ ý lấy Trời-Đất là chủ tể
của vũ trụ, rồi bên trên mới phát sinh ra gió (TỐN) và mưa (ĐOÀI), bên dưới
xuất hiện sấm (CHẤN) và núi (CẤN).
Mặt trời mọc ở phía
ĐÔNG nên xếp quẻ LY (Hỏa) ở đó, còn thủy nguồn từ phía TÂY chảy đến, nên là
phương vị của quẻ KHẢM. Chính vì vậy nên Tiên thiên Bát quái còn được coi là
quy luật vận hành và biến chuyển của vũ trụ, với Trời-Đất đứng giữa theo thứ tự
trên, dưới mà phát sinh cũng như điều hành mọi sự.
Sau khi Trời-Đất đã
hình thành, gió, mưa, sấm chớp, núi non, nước, lửa đều đã có thì lại xảy ra sự
tương tác giữa 2 thế lực đối nghịch Thủy-Hỏa mà làm nảy sinh ra sự sống. Tuy
rằng từ trong Thủy thì sự sống đã phôi phai hình thành, nhưng phải nhờ sức ấm
của Hỏa thì sự sống mới có thể được duy trì, tồn tại và phát triển. Chính vì
vậy mà Văn Vương nhà Chu (khoảng hơn 1,000 năm B.C) khi đặt ra Hậu thiên Bát
quái mới xếp 2 quẻ KHẢM (Thủy) – Ly (Hỏa) vào thay thế vị trí của CÀN-KHÔN để
điều khiển Ngũ hành mà làm nảy sinh cũng như duy trì sự sống trên trái đất theo
1 quy luật tương sinh theo chiều thuận (tức chiều kim đồng hồ) là Thủy sinh
Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim rồi Kim sinh Thủy là trở lại từ
đầu. Tức là từ Thủy mới có thể phát sinh ra vạn vật, rồi nhờ sức Hỏa mà giúp
cho vạn vật được tăng trưởng mạnh mẽ. Cho nên mới nói “Thủy là nguồn của vạn
vật, Hỏa là cha của vạn vật”. Nếu không có Thủy thì sự sống không thể phát
sinh, không có Hỏa thì sự sống không thể hình thành. Và sự tương tác giữa
Thủy-Hỏa chính là đầu mối phát sinh và phát triển của vạn vật cũng như sự sống
trên trái đất.
Sự ra đời của Hậu
thiên Bát quái là 1 bước tiến quan trọng và vượt bực của nền văn minh và khoa
học Đông phương. Đi cùng với Tiên thiên Bát quái, nó đã tóm gọn tất cả một giai
đoạn biến hóa, hình thành của vũ trụ từ vô hình cho đến lúc sự sống được hình
thành và hiện hữu trên mặt đất. Nếu nói Tiên thiên là quy luật biến hóa của
Trời-Đất thì Hậu thiên chính là quy luật biến hóa của sự sống. Nếu trong vũ trụ
lấy Trời (CÀN)-Đất (KHÔN) làm chủ, thì trong sự sống phải lấy Thủy-Hỏa đứng
đầu. Đây là 1 yếu tố cực kỳ quan trọng, là nền tảng cho nhiều ngành triết lý và
khoa học Đông phương, kể cả Đông y và Phong thủy.
2) Sự cân bằng
Thủy-Hỏa:
Tuy rằng Thủy-Hỏa
là nguồn phát sinh và nuôi duỡng vạn vật, nhưng chúng không thể tách rời, hay
tự tạo 1 mình, mà luôn luôn phải có sự điều hòa, phối hợp giữa 2 yếu tố này.
Nếu chỉ có Thủy mà không có Hỏa thì trái đất sẽ hàn lạnh đến cực độ, nên sự
sống dù có phát sinh cũng không thể thành hình. Nếu chỉ có Hỏa mà không có Thủy
thì cực khô, nóng, vạn vật sẽ bị thiêu hủy hoặc không thể nảy sinh. Cho nên
điều kiện đầu tiên để có sự sống là Thủy-Hỏa phải đối đãi, tương tác với nhau. Nói
“đối đãi” tức là chúng phải nằm ở những khu vực đối nghịch và tách rời nhau,
nhưng không phải để đối chọi, mà là để tương ứng và quân bình nhau. Chính vì
vậy nên trong Hậu thiên Bát quái mới xếp quẻ LY ở NAM, quẻ KHẢM ở BẮC, LY thế
chỗ của quẻ CÀN (trong Tiên thiên Bát quái) nên đứng ở trên, KHẢM thay chỗ của
KHÔN mà nằm phía dưới. Tuy mới thoạt nhìn thì chỉ thấy đó là thế đối nghịch,
nhưng nếu xét kỹ thì KHẢM (1) và LY (9) xuyên qua Thiên tâm mà tạo ra tình
huống âm-dương, Phu-Phụ “Hợp thập” với nhau. Tức là phải thông qua hình thức
xung đối mới có thể tương tác và quân bình cho nhau mà tạo dựng cũng như duy
trì và phát triển sự sống. Cũng vì vậy nên chẳng những Thủy-Hỏa không thể tách
rời, mà còn phải tương xứng và quân bình cho nhau nữa, như 1 LY đối với 1 KHẢM
trong Hậu thiên Bát quái, tức 1 âm-1 dương, 1 vợ-1 chồng mới có thể tạo dựng và
nuôi dưỡng được con cái. Một vấn đề quan trọng khác là giữa Thủy-Hỏa phải có sự
quân bằng, chứ không được chênh lệch, có như vậy mới bảo đảm cho sự sống được
hài hòa, mọi sinh vật tươi tốt, lớn mạnh không ngừng. Nếu chẳng may có sự chênh
lệch thì trong sự sống sẽ xuất hiện nhiều biến động. Nếu Thủy nhiều tất Hỏa sẽ
yếu, khiến cho âm khí, hàn lạnh sẽ làm chủ vạn vật, nên sự sống dù có được hình
thành cũng khó mà tăng trưởng mạnh mẽ. Nếu Hỏa nhiều thì Thủy sẽ suy kiệt, sự
sống dù có nhưng bị nhiệt Hỏa bức bách nên cũng khó lòng mà được yên ổn, lâu
dài. Chẳng những thế mà nếu Thủy quá mạnh thì sẽ dập tắt Hỏa, nếu Hỏa quá mạnh
thì sẽ làm khô cạn Thủy nên đều là những nguyên nhân đưa tới sự hủy diệt.
Cho nên sự cân bằng
Thủy-Hỏa là 1 vấn đề quan trọng, là mấu chốt trong quá trình sinh thái của vạn
vật, là nguồn gốc bảo vệ và duy trì sức khỏe cũng như hạnh phúc của con người.
Chính nhờ những phát kiến và nguyên lý về Thủy-Hỏa của Hậu thiên Bát quái mà
Đông y từ nghìn xưa đã biết thận (thuộc Thủy) là nội tạng đầu tiên xuất hiện
trong cơ thể con người, hoặc những bệnh về tim (thuộc Hỏa) là căn do bởi thận,
cho nên muốn chữa dứt bệnh tim thì phải lo chữa thận. Hoặc căn nguyên những
bệnh về gan (Mộc), Phế (Kim), dạ dày (Thổ)... cũng đều từ thận hay tim mà ra...
tức là căn do của bệnh tật, nguồn gốc của tử, sinh cũng đều do sự tương tác và
cân bằng Thủy-Hỏa mà thôi.
3) Ứng dụng trong Phong
thủy:
nhưng những nguyên
lý về Thủy-Hỏa trong Hậu thiên Bát quái chẳng những được ứng dụng vào Đông Y và
những nghành khoa học Đông phương khác, mà còn được ứng dụng triệt để và hữu
hiệu trong Phong thủy. Như chúng ta đã biết, đối với nhà cửa thì cổng, cửa ra
vào, đường phố, ao hồ chung quanh nhà, buồng tắm trong nhà... đều thuộc Thủy.
Còn bếp, cửa sổ, những vật dụng tiêu thụ điện, lửa... đều thuộc Hỏa (sở dĩ cửa
sổ thuộc Hỏa là vì chỉ dùng để lấy ánh sáng, chứ không phải là lối ra, vào.
Chính vì vậy nên phái Phong thủy Mật tông mới cho rằng nếu cửa sổ để dơ bẩn thì
người trong nhà dễ bị bệnh về mắt, mà mắt thuộc Hỏa. Hoặc nhiều phái Phong thủy
thường đòi hỏi số lượng cửa sổ và cửa ra vào phải tương ứng, cứ 1 cửa ra vào
thì chỉ được có tối đa là 3 cửa sổ, tức là muốn tạo nên sự cân bằng giữa Thủy (cửa
ra vào) và Hỏa (cửa sổ) mà thôi. Nếu nhà quá nhiều cửa sổ thì người trong nhà
hiếu động hoặc bướng bỉnh, hung hãn (vì Hỏa quá nhiều)...). Biết rằng Thủy là
nguồn của sự sống, nên 1 căn nhà tối thiểu cũng phải có 1 cửa ra vào thì mới có
người vào ở được. Đó là chưa kể nếu vị trí cửa còn đắc vượng khí của Hướng tinh
(tức đắc vượng “Thủy”) thì tài lộc của nhà đó sẽ dồi dào (vì Thủy là nguồn sống
của vạn vật, nên đối với con người chính là của cải, lương thực). Nhưng nếu nhà
đó chỉ có 1 cửa ra vào, 4 bề bít kín, tối tăm thì dù có của cải nhưng sức khỏe
yếu kém, cuộc sống âm u, tẻ lạnh (vì thiếu Hỏa). Chính vì thế nên nhà mới cần
mở cửa sổ để lấy ánh sáng chiếu vào. Nhưng ánh sáng chỉ là 1 nguồn Hỏa gián
tiếp, nên dù có nhiều cũng chưa chắc đã lấy lại được thế quân bình Thủy-Hỏa,
nhất là nếu chung quanh nhà lại có đường đi, ao, hồ, hoặc buồng tắm, bể nước...
trong nhà. Cho nên đa số nhà cửa mới phải dùng đến bếp là nguồn dẫn Hỏa trực
tiếp để đem lại thế quân bình Thủy-Hỏa ngay trong môi trường sống. Vì trong Hậu
thiên bát quái, Hỏa là nguồn tăng trưởng và phát triển của vạn vật, mà bếp
thường là nguồn xử dụng Hỏa nhiều nhất trong 1 căn nhà, nên ảnh hưởng đầu tiên
của nó là tới vấn đề sức khỏe của mọi người sống trong căn nhà đó. Do đó, nếu
biết cách đặt bếp sao cho làm tăng được sức của Hỏa, hoặc tạo được thế quân
bình giữa Thủy-Hỏa trong nhà thì sức khỏe của mọi người trong nhà sẽ tốt, còn
nếu không kiến tạo được sự cân bằng thì sẽ bị thế “Thủy vượng, Hỏa suy” hay
ngược lại, khiến cho sức khỏe của mọi người trong nhà sẽ rất yếu kém.
Có những trường hợp
nhà có cổng, cửa vừa lớn, vừa đắc sinh, vượng khí, mà chung quanh nhà lại có
sông, hồ, biển lớn... cũng đắc sinh, vượng khí, tức là “Thủy cục” của nhà đó
cực vượng. Lúc đó, dù bếp có được thiết kế hoàn bị đến đâu đi nữa (như cách xa
buồng tắm, bồn rửa chén, bể nước...) cũng vẫn bị vượng Thủy của căn nhà áp chế.
Cho nên muốn tái lập lại được thế quân bình Thủy-Hỏa cho căn nhà đó thì bếp cần
phải được đặt tại những nơi có khí sinh, vượng của Sơn tinh, có như thế thì vượng
Thủy của căn nhà mới được chế ngự, và Hỏa mới không còn bị Thủy lấn áp. Lý do
là vì Sơn tinh (bất kể phi tinh là hành gì) 1 khi là sinh, vượng khí đều lấy
Thổ (núi) làm đầu (cũng như Hướng tinh nếu là khí sinh, vượng cũng đều lấy Thủy
làm trọng). Một khi Thủy khí của căn nhà quá mạnh, Hỏa khí của bếp không địch
nổi, nhưng nếu đặt bếp tại nơi có vượng khí của Sơn tinh tức là mượn sức Thổ mà
kềm chế Thủy. Lại còn lấy Hỏa (của bếp) sinh Thổ, khiến cho Thổ khí đã vượng
lại còn được sinh, có như thế mới đủ sức chế ngự Thủy mà tái lập lại thế quân
bình Thủy-Hỏa. Vì vậy nên người xưa mới có câu:”Thủy là nguồn của Hỏa, Hỏa là
chủ của Thủy” chính là vì Hỏa tuy bị Thủy khắc, nhưng có thể sinh ra Thổ mà chế
ngự Thủy vậy. Những nhà đã có Thủy khí cực mạnh mà vẫn tạo được sự cân bằng
Thủy-Hỏa là những nhà đại phúc lộc, tài lộc, nhân đinh đều sẽ cực vượng. Ngược
lại, nếu không có sự cân bằng đó thì Thủy sẽ áp chế Hỏa, khiến cho nhà đó tuy
giàu có nhưng thường hay bị rơi vào tình trạng cô đơn hay tuyệt tự.
Một trường hợp khác
là có những nhà khi đặt bếp lại vô tình để nó nằm tại những khu vực có sinh,
vượng khí của Hướng tinh. Đây là 1 sai lầm tai hại vì đem bếp (Hỏa) vào đặt tại
chỗ có vượng Thủy, khiến cho Thủy-Hỏa tương khắc mà làm hao tổn cả tài-đinh.
Chính vì vậy nên trong “Thẩm thị Huyền không học” mới nhắc nhở phải tránh đặt
bếp nơi chỗ có vượng khí. Nếu nơi này có thêm bồn rửa chén hoặc bể nước... thì
tài sẽ vượng nhưng đinh không vượng. Còn nếu bếp đạt được những điều kiện tiêu
chuẩn như xa lánh thủy, hoặc bếp lớn, được xử dụng thường xuyên... thì nhà tuy
đông người nhưng tài lộc suy sụp. Cho nên bếp đặt tại khu vực có vượng khí của
Hướng tinh thì hoặc là làm cho Thủy-Hỏa xung khắc, hoặc là làm cho Thủy-Hỏa mất
quân bằng nên đều là vấn đề tai hại và cần phải tránh.
Nói tóm lại, 1 khi
đã hiểu được nguyên lý Thủy-Hỏa tương tác và quân bằng với nhau là nền tảng của
sự sống thì sẽ thấu hiểu được mọi công dụng của bếp, những phương pháp đặt bếp
cho từng trường hợp cần thiết, cũng như nhiều nguyên lý Phong thủy khác. Hơn
nữa, ngày nay với lối kiến trúc và tiện nghi hiện đại, với 1 nhà 5, 7 phòng
tắm, cùng với sky-light (giếng trời), hồ tắm, lò sưởi điện, hệ thống TV, máy
hát, computer... sẽ dễ làm cho nhiều người học Phong thủy phải hoang mang, bối
rối. Nhưng nếu quay về với Hậu thiên Bát quái, nắm được những nguyên lý của
Thủy-Hỏa vô hình thì mọi thứ sẽ được làm sáng tỏ. Cho nên như GS Nguyễn hữu
Lương, tác giả bộ “Kinh Dịch với vũ trụ quan Đông phương” đã viết: Hậu thiên
Bát quái là “công trình sáng tác vĩ đại nhất của Văn Vương... Đó là một siêu
phẩm tân kỳ của một bộ óc toán lý học bậc sư của thế giới cổ kim”, và “Có Tiên
thiên mà không có Hậu thiên thì quan niện vũ trụ chưa được toàn diện” là vậy.
Cách Tìm Và Đo
Hướng Nhà
Nhiều người khi mới
bắt đầu tìm hiểu hay muốn áp dụng Phong thủy đã gặp rất nhiều khó khăn trong
vấn đề xác định và đo hướng nhà. Nhất là trong những khu đô thị mà đường phố
không được thiết kế theo các trục Đông - Tây, Nam - Bắc, thì vấn đề tìm và đo
hướng nhà lại càng rắc rối hơn. Gần đây, đã có rất nhiều sách Phong thủy nói
tới vấn đề này, cũng như đưa ra nhiều phương pháp hầu giúp cho người đọc có thể
dựa vào đó mà tìm hướng nhà, tâm nhà. Nhưng càng nói thì càng làm cho người mới
học thêm hoang mang, khó hiểu, không biết phải dùng “phương pháp” nào cho đúng?
Thật ra, nguyên nhân chính chỉ là do người mới học Phong thủy do chưa có kinh
nghiệm, nên mới lung túng khi bắt tay vào vấn đề này mà thôi. Nhưng nếu cứ chịu
khó thực tập, quan sát nhiều thì sau 1 thời gian sẽ tự động nắm được vấn đề này
và không còn thấy khó khăn gì nữa. Dưới đây là 1 vài phương pháp đơn giản, hy
vọng giúp được phần nào cho những người mới học Phong thủy.
1) Tìm hướng nhà:
a) Lấy đường phố để
định hướng: cách đơn giản nhất là để ý coi chung quanh nhà có đường phố nào
không? Nếu có thì mặt nào của căn nhà hướng về nơi đó chính là hướng nhà, cho
dù là có cửa ra, vào hay không! Lúc đó mặt có cửa chỉ được coi là “hông nhà” mà
thôi. Nhưng cách lấy đường phố để định hướng nhà cũng còn có nhiều trường hợp
phức tạp như sau:
• Nếu nhà chỉ gần 1
con đường, và mặt đó có sân, hay có lối đi để ra, vào nhà thì mặt đó được xem
là hướng nhà, cho dù là có cửa hay không.
• Nếu nhà chỉ gần 1
con đường, nhưng mặt đó lại được rào kín, không có lối ra, trong khi mặt khác
lại có cửa, sân, và lối ra 1 hẻm nhỏ khác thì lại phải tính mặt có sân, cửa là
hướng của căn nhà.
• Nếu nhà gần 2 con
đường thì thông thường mặt nào gần con đường lớn hơn sẽ là hướng của căn nhà,
cho dù là mặt đó có cửa hay không.
• Nếu nhà gần 2 con
đường lớn như nhau, thì mặt nào có sân hay có lối đi cho mọi người trong nhà,
hoặc khách bộ hành có thể qua lại thì được xem là hướng. Nếu trong trường hợp
cả 2 mặt đều có thì lúc đó mới chọn mặt có cửa ra vào làm hướng.
• Nếu nhà gần 3 con
đường... thì phương pháp chọn hướng cũng tương tự, tức là trước nhất xem coi
mặt nào gần con đường lớn nhất, sau đó mới tính tới sân, lối đi cho mọi người
ra, vào hay khách bộ hành đi ngang qua, rồi mới tính đến cửa ra vào nhà. Cho
nên phương pháp chung thật ra chỉ là lấy dương (động) làm hướng, lấy âm (tĩnh)
làm tọa mà thôi.
1) Lấy lối đi để định
hướng:
đối với những nhà
trong 1 chung cư lớn hoặc cao tầng thì hướng nhà thường là mặt tiếp giáp với
lối đi của tầng (hay của chung cư) đó. Nhất là trong những chung cư khi mỗi
tầng có nhiều căn hộ khác nhau. Tuy nhiên, với những chung cư mà mỗi tầng chỉ
có 1 căn hộ thì hướng của căn hộ cũng là hướng của chung cư, chứ không có sự
khác biệt. Một chung cư mà mỗi tầng có 2 căn hộ thì còn tùy thuộc vào mỗi tầng
có lối đi xuyên suốt hay không mà quyết định hướng của mỗi căn hộ là theo lối
đi hay theo hướng chung cư.
2) Đo hướng nhà:
Nếu muốn đo hướng
nhà thì trước hết phải kiếm một la bàn tương đối lớn, có thể đọc được từng độ
một. Đưa la bàn ra phía trước nhà, đứng nhìn thẳng về phía trước . Muốn cho
THẬT CHÍNH XÁC thì cần vẽ một đường thẳng song song với bức tường phía trước
nhà, cách tường khoảng 2m. Rồi đứng sao cho 2 gót chân chạm lêm đường thẳng đó
. Có như vậy hướng nhìn thẳng về phía trước mới chính xác là hướng nhà . Sau đó
cầm ngửa mặt la bàn lên trời, và phải cầm cho bằng phẳng, để kim la bàn có thể
tự động xoay chuyển cho đến khi nó ngừng hẳn. Lúc đó mũi kim la bàn sẽ nằm ở
chính BẮC (tức 0 độ). Rồi giữ nguyên như thế, nhưng đưa la bàn lên gần mắt, mắt
nhìn thẳng về phía trước (nhưng xuyên qua mặt la bàn) thì sẽ biết hướng nhà là
bao nhiêu độ. Nhớ là khi coi vẫn phải để ý 2 vấn đề là:
1/ Giữ cho la bàn
bằng phẳng, để kim vẫn có thể di chuyển linh hoạt. Nếu để nghiêng la bàn thì
kim sẽ bị "kẹt" và do đó sẽ chỉ sai hướng.
2/ Mũi kim của la
bàn vẫn phải chỉ về chính BẮC (tức 0 độ), chứ không được xê dịch đi đâu cả .
Thường thì trên mặt la bàn sẽ có 1 mặt kiếng có thể xoay được, trên đó cũng
thường có 1 đường kẻ . Cho nên chỉ việc đưa la bàn lên gần mắt, giữ cho kim
không còn xoay chuyển nữa, rồi xoay mặt kiếng cho đường thẳng vẽ trên đó thẳng
với phía trước thì tuyến độ ngay chỗ đường thẳng đó chính là hướng nhà.
Cách Tìm Tâm Nhà Và Vẽ
Sơ Đồ Nhà
Ngày nay, trong lối
kiến trúc thật đa dạng và phức tạp để đáp ứng với những nhu cầu và thị hiếu của
con người trong đời sống đô thị hiện đại, vấn đề tìm tâm nhà lại càng rắc rối
hơn. Tuy có nhiều sách Phong thủy hướng dẫn các phương pháp tìm tâm nhà, nhưng
do người mới học Phong thủy chưa có kinh nghiệm, nên dễ bị sai lầm khi muốn xác
định tâm nhà. Sau đây là phương pháp đơn giản có thể giúp tìm tâm nhà và vẽ sơ
đồ nhà
1) Tìm tâm nhà:
Hình dạng nhà cửa
ngày nay cũng rất phức tạp và đa dạng, khiến cho việc tìm tâm nhà đang từ là 1
vấn đề dễ dàng đôi lúc cũng trở nên khó khăn. Đối với những nhà được xây theo
hình vuông hay hình chữ nhật thì tâm nhà là giao điểm của 2 đường chéo.
Đối với những nhà
có hình tam giác, lục giác, hình thang... thì cách tính tâm nhà cũng là cách
tính tâm những hình này trong các lớp toán tiểu học. Còn đối với những nhà có
nhiều góc cạnh không đồng đều thì việc định tâm nhà tương đối khó khăn hơn.
Phương pháp đơn giản nhất để tìm tâm của những căn nhà này (và ngay cả những
nhà hình tam giác, lục giác...) là vẽ sơ đồ nhà lên giấy kẻ ô vuông theo đúng
tỉ lệ kích thước của căn nhà, rồi in hình đó sang 1 tấm bìa cứng. Sau đó cắt
hết những phần thừa của tấm bìa cứng đi, chỉ để lại phần sơ đồ căn nhà mà thôi.
Rồi lấy 1 vật nhọn (như đầu viết chì, viết big...) để nâng tấm bìa cứng có hình
sơ đồ căn nhà lên. Tới lúc nó có thể nằm thăng bằng trên đầu cây viết thì điểm
đó chính là tâm của căn nhà. Dùng bút chì để đánh dấu điểm đó, xong bạn vẽ 2
đường thẳng đi ngang qua điểm đó: 1 đường thẳng góc với 2 bên hông nhà; 1 đường
thẳng góc với 2 mặt trước, sau của căn nhà. Đường thẳng thứ 2 này sẽ là tọa và
hướng của căn nhà. Từ đường thẳng này bạn có thể phân ra 8 hướng và 24 sơn
chung quanh nhà để xác định chính xác vị trí của mọi thứ trong nhà trước khi
luận đoán cát, hung, hay tìm cách sửa đổi Phong thủy cho căn nhà đó.
2) Vẽ sơ đồ nhà
Trước hết ta cần có
giấy trắng kẻ ô vuông và một cây thước đo. Ta đo chiều dài, chiều rộng của căn
nhà là bao nhiêu mét (hay feet), rồi tùy theo nhà lớn hay nhỏ mà tính theo tỷ
lệ cứ 1mét hay 1 feet = 1 ô hay 2 ô trên giấy. Kế đến, ta vẽ cách bố trí cuả
căn nhà, như cửa chính, cửa sau, cửa sổ, phòng khách, phòng ăn, bếp, phòng ngủ,
phòng vệ sinh, cầu thang, v.v., theo từng khu vực trong khuôn viên của 4 bức
tường. Dĩ nhiên là phải đo kích thước và tính tỷ lệ trước khi vẽ, ví dụ nếu ta
muốn vẽ vị trí bếp thì phải đo xem nó cách bức tường phía trước (hay phía sau)
khoảng bao nhiêu. Và cách bức tường bên phải (hoặc bên trái) khoảng bao nhiêu.
Rồi nó lớn khoảng bao nhiêu. Và nhìn về bức tường nào?...
Sau đó, ta áp dụng
cách tìm tâm nhà như đã nói ở trên để xác định tâm nhà trên sơ đồ vừa vẽ xong. Kết
hợp với cách tìm và đo hướng nhà (đã nói ở bài trước) ta sẻ xác định được 8
hướng trên sơ đồ nhà. Như vậy là ta có được một sơ đồ nhà hoàn chỉnh.
Chọn hướng nhà theo
tuổi
Từ trước đến nay,
khi nói đến vấn đề chọn hướng nhà, người ta đều dựa vào phương pháp phân chia
nhà và tuổi thành 2 nhóm ĐÔNG - TÂY như sau:
- Những người có
năm sinh thuộc các quẻ CHẤN, TỐN, KHẢM, LY là thuộc ĐÔNG TỨ MỆNH, và chỉ có thể
chọn những nhà có phương tọa thuộc các hướng ĐÔNG, ĐÔNG NAM, BẮC và NAM, tức
những nhà thuộc ĐÔNG TỨ TRẠCH thì mọi sự mới được tốt đẹp.
- Những người có
năm sinh thuộc các quẻ CÀN, KHÔN, CẤN, ĐOÀI là thuộc TÂY TỨ MỆNH, nên chỉ có
thể chọn những nhà có tọa thuộc các hướng TÂY BẮC, TÂY NAM, ĐÔNG BẮC và TÂY,
tức những nhà thuộc TÂY TỨ TRẠCH.
Nếu người mệnh ĐÔNG
mà ở TÂY trạch, hay người mệnh TÂY ở ĐÔNG trạch thì thường là làm ăn thất bại,
dễ mắc đủ mọi tai họa, bệnh tật, chết chóc.
- Thí dụ: chủ nhà
là nam, sinh năm 1960 (CANH TÝ) mệnh TỐN, tức thuộc Đông tứ mệnh, nên chỉ có
thể chọn những nhà có phương tọa thuộc các hướng BẮC, NAM, ĐÔNG và ĐÔNG NAM.
Tuy nhiên, có nhiều
người dù đã được “đúng hướng hợp với bản mệnh”, nhưng sau khi vào ở vẫn bị
nhiều tai nạn, khốn khó, yểu tử như những trường hợp dưới đây:
- Trường hợp 1:
Một gia đình nọ, cả
2 vợ, chồng đều sinh năm 1926 (BÍNH DẦN), nên chồng mệnh KHÔN, vợ mệnh TỐN. Vào
năm 1965, họ dọn vào 1 căn nhà hướng TÂY NAM (210 độ), tọa ĐÔNG BẮC, nên tọa -
hướng đều hợp với tuổi của chồng, nhưng khắc tuổi người vợ. Không những thế,
bếp còn nằm ở khu vực TÂY BẮC, miệng bếp nhìn về hướng TÂY NAM. Nhưng sau khi
vào ở thì gia đình càng ngày càng lụn bại, lại hay bị bệnh tật, tai họa liên
miên. Sau khi ở đó được hơn 8 năm, người chồng bị đứt mạch máu và bại liệt nửa
người, rồi chỉ hơn 1 năm sau thì ông qua đời.
- Trường hợp 2:
Một người nữ, sinh
năm 1950 (vì sinh trong tháng 1 nên vẫn thuộc năm KỶ SỬU), mệnh LY. Vào năm
1995, người này dọn vào ở trong căn nhà tọa BẮC hướng NAM (hay tọa TÝ hướng
NGỌ). Bếp nằm tại khu vực phía TÂY BẮC, hướng bếp (tức hướng lưng người đứng
nấu) nhìn về phía NAM. Khi mới vào ở mọi sự bình thường, nhưng đến năm 2003 thì
bị thất nghiệp, rồi sang năm 2004 lại phát hiện bị bệnh ung thư. Sau mấy năm
trời đau đớn chịu đựng thì qua đời vào đầu năm 2008.
- Trường hợp 3:
Một gia đình nọ,
chồng sinh năm 1958 (MẬU TUẤT), mệnh CÀN, vợ sinh năm 1961 (TÂN SỬU), mệnh
CHẤN, mua nhà tọa BẮC hướng NAM từ cuối năm 2003. Bếp nằm trong khu vực phía
BẮC và nhìn về hướng NAM. Tuy nhà này “hợp” với tuổi của người vợ, còn “khắc
hại” tuổi của người chồng, nhưng sau khi vào ở chưa vừa 3 năm thì người vợ bị
đủ thứ tai họa, mất việc, kiện tụng, bệnh hoạn, thần kinh suy nhược trong khi
người chồng thì tương đối ổn định, tuy có nóng nảy hơn lúc trước.
Qua những trường
hợp trên, cũng như rất nhiều trường hợp thực tế khác, có thể thấy phương pháp
dùng tuổi để chọn hướng nhà là hoàn toàn sai lầm, và đôi khi còn mang tới nhiều
kết quả tai hại.
Nhưng nếu nói như
thế thì sẽ không có phương pháp nào để chọn hướng nhà? Và những người muốn mua
nhà, xây nhà đều chỉ có thể chọn đại rồi phó mặc cho số phận? Thật ra, Phong
thủy cũng có 2 phương pháp chọn hướng nhà: thứ nhất là tìm vận khí của căn nhà
theo Phi tinh; thứ 2 là dựa vào sự cân bằng ngũ hành của tất cả năm, tháng,
ngày, giờ sinh, tức lựa chọn hướng nhà theo phương vị của dụng thần trong Tứ
trụ (hoặc Bát tự), chứ không thể chỉ theo mệnh quái của năm sinh được. Dưới đây
xin được trình bày sơ qua 2 vấn đề đó để bạn đọc có thể nắm được như sau:
1/ Dựa theo vận khí
của căn nhà: tức là phải dùng phương pháp lập trạch vận theo Huyền Không Phi
Tinh, để xem nhà có nhận được vượng khí hay không trước khi tuyển chọn. Vấn đề
này rất dài dòng, vì đòi hỏi phải học và nắm vững những lý thuyết về Huyền
không mới có thể làm được.
- Thí dụ: trong
trường hợp 1 ở trên, nhà hướng 210 độ (tức tọa SỬU hướng MÙI), vào ở năm 1965
là trong vận 6. Nếu lập trạch vận căn nhà theo Huyền không phi tinh sẽ được như
hình dưới.
Vì lúc đó đang
trong vận 6 (1964 - 1984), mà phía trước nhà có Sơn tinh số 6, còn phía sau có
Hướng tinh 6, nên nhà này bị “Thượng Sơn Hạ Thủy”(xin đọc bài “Thượng Sơn Hạ
Thủy” trong mục “Lý thuyết Phong thủy - Huyền không” để biết thêm về vấn đề
này). Đã thế, phía sau nhà không có cửa để đón vượng khí của Hướng tinh 6, còn
phía trước gặp phải Tử khí (Hướng tinh 9). Chưa kể khu vực phía TÂY nhà còn có
cửa hông, gặp phải sát khí Ngũ Hoàng (số 5) nên mới bị lắm tai họa, bệnh tật và
mất người như thế, cho dù hướng nhà có hoàn toàn “hợp” với tuổi của gia chủ đi
nữa.
Một điều cần chú ý
là nếu phía sau nhà này (tức khu vực phía ĐÔNG BẮC) có cửa hoặc ao, hồ thì vận
khí của căn nhà sẽ thay đổi và tốt đẹp hơn. Vì vậy, ngoài việc lập Phi tinh của
trạch vận, còn phải biết kết hợp nó với thiết kế và địa hình trong, ngoài mới
có thể luận đoán chính xác vận khí của từng căn nhà.
2/ Dựa vào sự cân
bằng của Ngũ hành trong Tứ trụ:
tức là phải xét hết
mọi yếu tố của năm, tháng, ngày, giờ sinh để tìm ra dụng thần và kỵ thần, rồi
từ đó mới có thể chọn được hướng nhà thích hợp cho từng người hoặc gia chủ.
- Thí dụ: trong
trường hợp 2 ở trên, người đàn bà đó sinh ngày 25/1/1950, lúc 9g tối. Nếu đổi
ra Can - Chi theo âm lịch thì năm, tháng, ngày, giờ sinh sẽ là 8g tối:
KỶ SỬU ĐINH SỬU
CANH THÂN BÍNH TUẤT
Ngày sinh CANH
(Kim) là mệnh, tuy được THÂN (cũng thuộc hành Kim) trợ giúp, nhưng sinh vào
tháng SỬU là mệnh CANH gặp Mộ địa, lại còn bị BÍNH - ĐINH ở 2 bên đều là Hỏa
khắc mệnh, cho nên mệnh này nhược (yếu) mà còn bị khắc. Vì vậy, cần lấy KỶ
(Thổ) để điều tiết Hỏa mà sinh cho mệnh làm dụng thần, QÚY (Thủy) tàng ẩn trong
SỬU để khắc chế bớt Hỏa làm hỷ thần, còn BÍNH - ĐINH Hỏa đều là kỵ thần. Vào
thời gian từ 53 đến 62 tuổi, người này nhập đại vận QUÝ MÙI, Thiên khắc - Địa
xung với cả năm và tháng sinh, khiến cho dụng thần và hỷ thần KỶ - QUÝ đều bị
xung mất, chỉ còn có BÍNH Hỏa khắc mệnh. Vì Kim bị Hỏa khắc là có bệnh ở ngực
hoặc phổi, cho nên mới bị ung thư vú. Đã vậy lại còn ở nhà hướng NAM (thuộc
cung LY - Hỏa), hàng ngày ra, vào là đều đi về phía của kỵ thần và hung thần
Hỏa nên mệnh càng bị khắc nặng. Khi vừa qua năm MẬU TÝ là năm Hỏa vượng, tháng
1 âm lịch là tháng GIÁP DẦN, tức Mộc vượng sinh Hỏa, mệnh bị khắc không còn
đường cứu chữa nên phải lìa đời.
Cho nên, nếu dựa
theo Tứ trụ thì người này không thể ở nhà hướng NAM hoặc ĐÔNG, mà nên chọn
những nhà thuộc các hướng ĐÔNG BẮC, TÂY NAM (thuộc Thổ), hoặc BẮC (Thủy), hay
TÂY và TÂY BẮC (Kim). Vì vậy nếu dọn đi nơi khác thì đã có thể thoát hiểm,
nhưng rất tiếc là đã không chịu làm gì cả.
Do đó, có thể thấy
ngay cả những người sinh cùng năm, tháng, ngày, giờ với người này, nhưng nếu
phương hướng nhà ở khác biệt thì vận số của mỗi người cũng sẽ khác biệt, chứ
không phải ai sinh cùng năm, tháng, ngày, giờ đó đều sẽ bị ung thư và qua đời
vào đầu năm 2008. Đó chính là những trường hợp “đức năng thắng số” mà cổ nhân
thường nhắc tới.
Trường hợp này cũng
cho thấy là không phải tất cả mọi người cùng 1 tuổi đều có thể (hay không thể)
ở cùng 1 hướng nhà, mà còn tùy theo phương hướng của dụng, hỷ thần hay kỵ thần.
Vì vậy, có những người cùng tuổi KỶ SỬU, mệnh LY mà ở nhà hướng NAM thì lại
tốt, nhưng có người ở lại bình thường hoặc rất xấu.
Ngoài ra, dưới đây
là trường hợp tòa Bạch Ốc, chỗ ở và làm việc của các TT Hoa Kỳ, cùng với tuổi
và mệnh quái của các TT từ Abraham Lincoln cho tới George W. Bush hiện giờ.
Tòa nhà này tọa
chính BẮC (0 độ), hướng chính NAM (180 độ), nên thuộc ĐÔNG trạch, nên đúng ra
phải tốt và phù hợp với những TT thuộc ĐÔNG TỨ MỆNH. Nhưng nhìn vào bảng trên,
ta thấy chẳng những tòa Bạch Ốc lại “thu hút” nhiều TT thuộc TÂY TỨ MỆNH, mà
hầu hết những TT nổi tiếng tài ba và đi vào lịch sử như Lincoln, T. Roosevelt,
F.D. Roosevelt, Truman, Eisenhower, Kennedy, Reagan cũng đều thuộc TÂY TỨ MỆNH.
Còn hầu hết những TT thuộc ĐÔNG TỨ MỆNH lại thất bại và bị lịch sử chê trách,
ngoại trừ W. Wilson là được ca ngợi mà thôi. Riêng W. (Bill) Clinton tuy cai
trị thành công, nhưng lại bị qúa nhiều tai tiếng, nên chỉ được đánh giá bình
thường hay tương đối khá mà thôi. Vì vậy, vấn đề được đặt ra là 1 người có mệnh
quái “phù hợp” với hướng nhà cũng chưa chắc đã được thuận lợi và mọi sự tốt
đẹp, trong khi 1 người có mệnh quái khác biệt với hướng nhà cũng chưa chắc đã
hoàn toàn thất bại và bị “vùi xuống đất đen” như người ta thường nghĩ.
Phương Pháp Chọn Hướng Nhà (Phần 1)
Đối với Huyền Không
phi tinh, việc lựa chọn tọa sơn, lập hướng cho một căn nhà (hay phần mộ) là một
vấn đề khá phức tạp, đòi hỏi nhiều công phu và mức độ xem xét khá tỉ mỉ.
Tuy rằng trên nguyên tắc thì bất
cứ tuyến vị nào đắc vượng tinh tới hướng hay tới cửa đều có thể chọn dùng,
nhưng Huyền Không còn đòi hỏi hướng nhà phải thuần khí, chứ không được pha tạp
với những khí khác. Muốn đạt được điểm này thì nhà (hay mộ) cần phải được chính
sơn, chính hướng, đồng thời phải xa lánh những tuyến Đại không vong và Tiểu
không vong.
Nếu trong trường
hợp nhà không thể chọn được chính hướng, mà bắt buộc phải kiêm hướng, thì độ
kiêm cũng cần phải theo đúng pháp độ, chứ không thể tùy tiện chọn lựa.
Sau đó còn phải
phối hợp với sơn-thủy và địa hình chung quanh, cũng như Thành môn ở 2 bên hướng
như thế nào? Nếu mọi sự đều tốt đẹp thì đó mới là cục diễn toàn mỹ, còn nếu
không thì tùy trường hợp nào khiếm khuyết mà mức độ tốt đẹp sẽ giảm thiểu, cho
nên tuy rằng căn nhà đó cũng có thể tạm ở, nhưng nên chờ cơ hội mà tu chỉnh lại
hay kiếm những nơi khác tốt đẹp hơn.
Dưới đây chúng ta
sẽ khảo sát từng điều kiện ở trên để có thể hiểu thấu đáo hơn về phương pháp
chọn hướng nhà.
· Vấn đề thuần khí
· Chính Sơn, Chính H ướng
· Kiêm h ướng
· Đại Không Vong
· Tiểu Không Vong
· Thành môn
· Phối hợp Phi tinh với
địa hình
Vấn đề thuần khí
Huyền Không Phong Thủy rất coi
trọng vấn đề này, xem nó như là yếu tố đầu tiên quyết định họa phúc, sang hèn
của một căn nhà. Muốn xét căn nhà có được thuần khí hay không thì trước hết
phải nhớ kỹ Tam Nguyên Long, đã được nói trong những bài trước, ở đây chỉ sơ
lược lại như sau:
THIÊN NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương:
CÀN-KHÔN-CẤN-TỐN
• 4 sơn âm:
TÝ-NGỌ-MÃO-DẬU
NHÂN NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương:
DẦN-THÂN-TỴ-HƠI
• 4 sơn âm:
ẤT-TÂN-ĐINH-QUÝ
ĐỊA NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương :
GIÁP-CANH-NHÂM-BÍNH
• 4 sơn âm:
THÌN-TUẤT-SỬU-MÙI
Một căn nhà được
xem là Thuần khí khi tuyến vị tọa-hướng của nó hoặc là nằm chính giữa 1 sơn,
hoặc là lệch sang bên phải hoặc bên trái tuyến vị đó (còn gọi là Kiêm hướng)
nhưng không quá 3 độ. Nếu lệch quá 3 độ thì sẽ lấy khí của sơn bị kiêm nhiều
quá, khiến cho khí của tọa-hướng không còn thuần khiết nữa, mà đã bị pha tạp,
mức độ tốt đẹp sẽ giảm thiểu, hoặc sẽ gặp hung họa lớn, nếu như chẳng may nhà
lại không đắc được vượng khí tới hướng hay cửa, nhất là chủ về chết người, tổn
đinh hay bị tuyệt tự.
- Thí dụ 1: Căn
nhà có hướng là 180 độ. Vì đây là tuyến vị chính giữa của sơn NGỌ (bao gồm từ
172 độ 6 đến 187 độ 5), nên nhà này được xem là Thuần khí.
- Thí dụ 2: Căn
nhà có hướng là 185 độ. Vì tuyến vị này đã lệch 5 độ so với tuyến chính giữa
của cung NGỌ, nên sẽ không được coi là thuần khí nữa, và khi lập tinh bàn phải
dùng đến "Thế quái". Lúc đó nếu nhà đắc được vượng khí thì cũng khá
tốt, nếu không đắc được vượng khí thì tai họa sẽ chồng chất do việc khí không
thuần gây ra.
Ngoài vấn đề tuyến
vị của tọa-hướng không được kiêm quá nhiều, còn phải để ý đến vị trí của cổng,
cửa và ngõ vào nhà. Nếu tọa-hướng nhà thuộc Thiên Nguyên Long thì cổng, cửa và
ngõ vào nhà phải cùng nằm trong những khu vực thuộc Thiên Nguyên. Nếu tọa-hướng
nhà thuộc Nhân Nguyên thì cổng, cửa cũng phải nằm trong những khu vực thuộc
Nhân Nguyên. Nếu tọa-hướng thuộc Địa Nguyên thì cổng, cửa cũng phải nằm trong
khu vực của Địa Nguyên. Có như thế mới bảo đảm được sự thuần khí.
- Thí dụ căn nhà
tọa TÝ hướng NGỌ. Vì TÝ-NGỌ đều thuộc Thiên Nguyên Long, nên khi làm cổng, cửa
cũng cần phải đưa về những khu vực thuộc Thiên nguyên Long. Nều nhà gần ngã ba,
ngã tư, hay có những lối rẽ vào nhà thì những ngã ba, ngã tư hay những khúc rẽ
này cũng cần nằm tại các khu vực thuộc Thiên nguyên Long (nếu tính từ tâm nhà).
Một điểm quan trọng
khác là tuy tọa-hướng và cổng, cửa của 1 căn nhà cần phải cùng 1 Nguyên Long
với nhau, nhưng phải trái ngược âm-dương môi bảo đảm được phúc, lộc lâu dài
(Phúc-Lộc vĩnh trinh).
- Thí dụ nhà tọa TÝ
hướng NGỌ. Vì tọa-hướng của căn nhà này là thuộc âm hướng của Thiên nguyên
Long, nên cổng, cửa hoặc ngõ vào nhà này cũng nên nằm tại những sơn thuộc Thiên
nguyên Long như TÝ, NGỌ, MÃO, DẬU hay CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN. Nhưng nếu chúng nằm
tại các sơn CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN thì đó là cách phối hợp âm hướng với dương
khẩu, phúc lộc sẽ tốt đẹp và lâu dài hơn nếu cổng, cửa nằm tại các sơn TÝ, NGỌ
MÃO, DẬU (vì âm hướng phối với âm khẩu thì âm khí quá thịnh, phúc khí không thể
phát mạnh được).
Cho nên khi chọn phương
hướng cho một căn nhà thì lần lượt theo các bước sau:
1) Dùng la bàn để
đo xem hướng nhà là bao nhiêu độ? Và nó thuộc tuyến vị chính giữa của mỗi sơn
hay kiêm, và kiêm nhiều hay ít?
2) Xác định
tọa-hướng của căn nhà là thuộc Nguyên Long nào? Và là âm hay dương?
3) Phối hợp với
phương vị của cổng, cửa, ngõ vào nhà hay ngã ba, ngã tư gần nhà, sao cho chúng
vừa phải đồng Nguyên, vừa phải phối hợp được giữa âm hướng với dương khẩu, hay
giữa dương hướng với âm khẩu, cộng với vượng tinh tới hướng thì phú quý sẽ có
đủ.
Nếu bất đắc dĩ
không thể đạt được cuộc âm-dương phối hợp giữa hướng và khẩu thì ít nhất cũng cần
đạt được sự đồng Nguyên giữa khẩu và hướng, cộng với vượng khí chiếu tới hướng
hay cửa cũng có thể hưng thịnh 1 thời. .
Phương Pháp Chọn Hướng
Nhà (Phần 2)
Chính Sơn, Chính Hướng
Chính vì vấn đề đòi
hỏi nhà (hay mộ) phải thuần khí, nên không những giữa tọa-hướng với cổng, cửa
và ngõ vào nhà phải cùng 1 Nguyên Long, mà tuyến vị của tọa-hướng cũng nên nằm
tại tuyến vị chính giữa của mỗi sơn (xin xem lại bài “24 SƠN-HƯỚNG VÀ TAM
NGUYÊN LONG). Nếu có kiêm (hay lệch) sang phải hoặc sang trái cũng không được quá
3 độ so với tuyến vị chính giữa. Có như thế mới bảo đảm cho tọa-hướng của căn
nhà được thuần khí.
Một điều làm cho
người mới biết về Phong thủy hoang mang không ít là có nhiều trường phái lại
cho là những tuyến vị chính giữa của mỗi sơn-hướng đều là những tuyến xấu, có
khí trường quá mạnh nên không thể lấy. Nếu chọn những tuyến đó để tạo sơn, lập
hướng thì sẽ dễ gặp tai họa!!! Do đó, khi chọn tọa-hướng cho nhà (hay mộ) thì
họ thường không bao giờ chọn tuyến vị chính giữa, mà bao giờ cũng sẽ chọn tuyến
vị kiêm 3 độ.
Quan điểm này không
hiểu là do những hiểu biết sai lầm về Phong thủy, hay do ảnh hưởng của xã hội
phong kiến thời xưa. Vì dưới các thời đại phong kiến Trung Hoa trước đây, chỉ
có vua chúa, quan lại mới được xử dụng những gì được coi là cao sang, tốt đẹp,
còn dân thường thì phải né tránh, không được “vi phạm” tới. Ngay cả phương
hướng làm nhà cửa, cung điện... thì cũng chỉ có vua hoặc quan lớn mới lấy theo
tuyến vị chính giữa của sơn-hướng. Chẳng hạn như những dinh thự, lâu đài của
các vua chúa ngày xưa thường cất theo trục tọa TÝ (BẮC) hướng chính NGỌ (NAM),
chứ không kiêm 3 độ bao giờ. Cho nên có thể là các vua chúa và những đại sư
Phong thủy đời xưa cũng đã thấy được cái quý của vấn đề thuần khí và tuyến vị
chính giữa của mỗi sơn-hướng. Chính vì vậy mà chỉ có họ mới được lập mà thôi.
Còn nhà dân thường thì bao giờ cũng kiêm 3 độ, tuy vẫn được coi là thuần khí,
nhưng ít nhiều cũng đã bị pha tạp bởi khí khác, nên ít ra là về phong cách cũng
sẽ không bằng tầng lớp qúy tộc trong xã hội được.
Ngoài ra, nếu ai đã
đọc tác phẩm “Tòng sư tùy bút” của Khương Diêu (đệ tử của Tưởng đại Hồng, 1
danh sư Phong thủy cuối thời nhà Minh) thì cũng có thể thấy vấn đề né tránh
tuyến vị chính giữa và chọn “kiêm 3 độ” là sai lầm như sau:
“Ngày nọ, tôi (tức
Khương Diêu) theo Phu tử (tức Tưởng đại Hồng) ra ngoài Xương an Môn, thấy nhà
nọ hạ táng. Các thổ công đều nói “Tưởng tiên sinh tới rồi!”. Chủ nhân hỏi:
“Tưởng tiên sinh là ai?” Thổ công đều nói:”Tiên sinh là bậc địa tiên”. Một số
địa sư (tức thầy Phong thủy) đứng ở đấy che miệng cười khẩy, nói với chủ nhân
rằng: “Ông ta là Tưởng đại Hồng, thường nói thiên cơ bất khả tiết lộ đó”. Rồi
bọn họ quay qua nói với thầy tôi:”Cuộc đất tốt như vầy là chốn hưng thịnh của
Trời, không cần ông nhọc sức tiết lộ thiên cơ”. Chủ nhân cũng khoe cuộc đất của
mình long huyệt sơn thủy đều đẹp. Thầy tôi chẳng nói gì. Thổ công là người quen
biết với tôi mới mách cho biết rằng:”Cuộc đất này sơn SỬU, hướng MÙI kiêm
CẤN-KHÔN. Ba năm trước đây Tưởng tiên sinh có điểm huyệt giúp cho 1 người, cũng
dùng sơn SỬU, hướng MÙI (tức lấy tuyến chính giữa của SỬU-MÙI, chứ không kiêm 1
độ nào cả), nay nhà ấy ngày càng hưng thịnh. Ở đây có 1 địa sư sao chép lại
cách điểm huyệt của Tưởng tiên sinh, muốn bắt chước chỉ dùng đơn hướng. Nhưng
chủ nhân và các địa sư khác đều không dám tin theo, mấy ông ấy ùn ùn kiêm 3
độ”. Thầy về, tôi kể lại thì thầy nói:”Chủ nhân ắt phải chết. Phạm vào Ngũ
Hoàng, Lực sĩ mà không mất người được ư?” (vì năm đó 2 sao Ngũ Hoàng, Lực sĩ
đều tới phương tọa của ngôi mộ). Sau khi táng chưa tới 5 ngày, chủ nhân bị ngã
ngựa mà chết”.
Kiêm hướng
Những nhà có tuyến
vị của tọa-hướng nằm lệch từ 1 độ đến 7 độ 5 so với tuyến vị chính giữa (bất kể
là lệch sang bên phải hoặc bên trái) của 1 sơn thì đều được xem là Kiêm hướng.
Nhưng như đã nói ở phần trên, những nhà có tuyến vị lệch từ 1 đến 3 độ thì vẫn
được coi là thuộc “chính sơn, chính hướng”, khí vẫn còn thuần nhất nên không có
gì thay đổi. Còn những nhà có tuyến vị lệch từ 3 đến 6 độ thì do độ kiêm khá
lớn, khí của sơn bên cạnh đã pha tạp với khí của chính tọa, chính hướng, cho
nên khi lập tinh bàn mới phải dùng đến Thế Quái (tức số thế, xin coi lại bài
“THẾ QUÁI”).
Đây là trường hợp
chỉ nên tạm dùng trong 1 thời vận nào đó, đến khi qua vận khác mà nếu thấy
chính hướng đắc vượng khí thì cần xây dựng lại nhà của (hay phần mộ) theo hướng
đó, chứ không thể để nhà cửa kiêm hướng nhiều trong 1 thời hạn lâu dài, sẽ có
tai họa do vấn đề khí không thuần khiết mà ra, khiến cho người trong nhà phẩm
chất hư hèn, lại dễ mắc những tai họa về hình ngục. Câu “Chính sơn, chính hướng
lưu chi thượng, quá yêu ngộ hình trượng” trong “Thiên bảo Kinh” của Dương quân
Tùng, có nghĩa là sơn-hướng cần phải kiêm ít, chứ không thể kiêm nhiều, nếu
kiên nhiều (quá yêu) tất sẽ bị tai họa về hình ngục, lao tù (ngộ hình trượng).
Cho nên người học Huyền Không phải rất cẩn thận trong vấn đề kiêm hướng.
Ngoài ra, trong
trường hợp kiêm hướng thì cũng còn phải tùy theo âm-dương mà kiêm đúng pháp độ
thì mới có thể tạo phúc, chứ không thể kiêm 1 cách tùy tiện. Nói tùy theo
âm-dương tức là phải coi xem tọa-hướng của 1 căn nhà là nằm trong những sơn
dương hay âm? Nếu chúng nằm trong những sơn dương thì khi kiêm hướng cũng phải
cần dùng những độ số dương như 1, 3, 5, 7. Nếu chúng nằm trong những sơn âm thì
cần dùng những độ số âm như 2, 4, 6. Đó mới là kiêm đúng pháp độ. Còn kiêm
không đúng pháp độ tức là tọa-hướng thuộc sơn dương mà lại dùng độ số âm, hay
tọa-hướng thuộc sơn âm mà lại dùng độ số dương.
Nếu kiêm đúng pháp
độ thì trong trường hợp đắc vượng khí tới hướng cũng có thể phát khá lớn, trong
trường hợp thất vận hoặc gặp khí suy tử chiếu tới cũng không đến nỗi mắc tai
họa nặng lắm. Nếu kiêm không đúng pháp độ thì dù đắc vượng khí tới hướng mà có
đắc tài đắc lộc cũng có những tai họa bất ngờ. Gặp lúc thất vận thì hung họa
càng khủng khiếp, không thể đo lường được.
Một điều cần để ý
là khi 1 căn nhà hay 1 ngôi mộ kiêm hướng thì chính tọa chính hướng của nó được
gọi là “Chủ Sơn, Chủ Hướng”, còn tọa-hướng được kiêm gọi là “Chi Thần”. Rồi
phải xem cổng, cửa, lai, khứ thủy... phải cùng 1 Nguyên Long với “Chủ Sơn, Chủ
Hướng”, chứ không thể cùng Nguyên Long với “Chi Thần” được. .
Phương Pháp Chọn Hướng
Nhà (Phần 3)
Đại Không Vong
Tuyến Đại không
vong là những đường ranh giới giữa 8 hướng trên la bàn. Biết rằng 1 vòng tròn
trên la bàn bao gồm 360 độ, nếu chia ra 8 hướng thì mỗi hướng sẽ chiếm đúng 45
độ. Những tuyến độ nằm giữa 2 hướng là những tuyến Đại không vong. Ví dụ như
hướng BẮC bắt đầu từ 337 độ 5 đến 22 độ 5, kế đó là hướng ĐÔNG BẮC bắt đầu từ
22 độ 5 đến 67 độ 5. Những tuyến vị 337 độ 5, hoặc 22 độ 5, hoặc 67 độ 5 là
những tuyến Đại không vong.
Như vậy, có 8 tuyến Đại không
vong trên la bàn như sau:
- Tuyến 22 độ 5
(giữa BẮC và ĐÔNG BẮC).
- Tuyến 67 độ 5
(giữa ĐÔNG BẮC và ĐÔNG).
- Tuyến 112 độ 5
(giữa ĐÔNG và ĐÔNG NAM).
- Tuyến 157 độ 5 (giữa
ĐÔNG NAM và NAM).
- Tuyến 202 độ 5
(giữa NAM và TÂY NAM).
- Tuyến 247 độ 5
(giữa TÂY NAM và TÂY).
- Tuyến 292 độ 5
(giữa TÂY và TÂY BẮC).
- Tuyến 337 độ 5
(giữa TÂY BẮC và BẮC).
Ngoài 8 tuyến vị kể
trên (được coi là 8 tuyến Đại không vong chính), còn có những tuyến nằm gần sát
và 2 bên những tuyến đó trong khoảng 1 độ 5 cũng đều được coi là những tuyến
Đại không vong cả.
- Thí dụ 1: một căn
nhà có hướng 21 độ. Vì tuyến này chỉ cách tuyến Đại không vong chính (giữa 2
hướng BẮC và ĐÔNG BẮC, tức tuyến 22 độ 5) có 1 độ 5, cho nên hướng nhà này phạm
Đại không vong.
- Thí dụ 2: một căn
nhà có hướng 23 độ 5. Vì tuyến này cũng chỉ cách tuyến Đại không vong chính có
1 độ, nên nó cũng là tuyến Đại không vong.
- Thí dụ 3: một căn
nhà có hướng là 20 độ 5. Vì tuyến này cách tuyến Đại không vong chính 2 độ, nên
nó không được coi là tuyến Đại không vong nữa.
Đối với Phong thủy
Huyền Không, tất cả mọi tuyến Đại không vong đều là những tuyến vị cực xấu. Nếu
cất nhà, xây mộ theo những hướng đó thì về nhân sự có thể bị chết người, cô quả
hay bị tuyệt tự. Về tài lộc có thể bị phá sản, lao tù vì tiền bạc... Về bản
chất con người sống trong những nhà đó cũng chủ thô tục, bần tiện, thiếu liêm
sỉ hoặc hung ác, lại hay thấy ma quỷ...
Tuyến Đại không
vong sở dĩ cực xấu là vì tọa-hướng của căn nhà đã kiêm quá nhiều (từ 6 đến 7 độ
5) nên khí của căn nhà đã hoàn toàn bị pha tạp, biến chất. Nó vừa kiêm khí của
sơn khác (trong 24 sơn), vừa kiêm khí của hướng khác (trong 8 hướng).
- Thí dụ nhà hướng
22 độ, tọa ĐINH hướng QUÝ kiêm MÙI-SỬU 7 độ, nên tọa và hướng vừa kiêm đều 2
sơn (tọa là ĐINH kiêm MÙI; hướng là QUÝ kiêm SỬU). Nhưng vì ĐINH thuộc hướng
NAM, còn MÙI thuộc hướng TÂY NAM, nên tọa của nhà này vừa thuộc hướng NAM, vừa
kiêm thêm hướng TÂY NAM nữa. Tương tự, ở hướng là QUÝ kiêm SỬU, nhưng QUÝ thuộc
hướng BẮC, còn SỬU thuộc hướng ĐÔNG BẮC, nên hướng nhà này vừa thuộc hướng BẮC,
vừa kiêm ĐÔNG BẮC.
Những nhà thuộc
tuyến Đại không vong đều bị coi là “LẠC QUẺ” hay “XUẤT QUÁI” (tức ra ngoài phạm
vi 1 hướng) bởi vì tạp khí hỗn loạn, không có một chính khí đủ mạnh để làm chủ
khí, như nhà không chủ. Những căn nhà này dể có nhiều tai họa nghiêm trọng như
bị tà khí chi phối, bị ma quỷ quấy phá, cũng như con người trở nên hẹp hòi, thô
lậu, bần tiện, gian trá hơn. Chính vì vậy mà “Trạch vận Tân án” mới nói những
nhà có hướng thuộc tuyến Đại không vong thì ”tiến thoái đều khó, trở thành tiện
cục (cách bần tiện), khiến vợ, chồng lục đục, anh em bất hòa, văn nhân thì mắc
bệnh thần kinh, nhiều sự bất hạnh liên tiếp xảy ra”. .
Phương Pháp Chọn Hướng
Nhà (Phần 4)
Tiểu Không Vong
Tuyến Tiểu không
vong: nếu tuyến Đại không vong là những tuyến nằm ngay lằn ranh của 2 hướng,
thì tuyến Tiểu không vong là những tuyến nằm ngay lằn ranh của 2 sơn. Như chúng
ta đã biết, trên la bàn gồm 360 độ được chia ra 8 hướng, mỗi hướng chiếm 45 độ.
Trong mỗi hướng lại được chia ra làm 3 sơn, nên mỗi sơn chiếm 15 độ. Cho nên
tổng cộng có 24 sơn trên la bàn, và vì vậy cũng có 24 tuyến Tiểu không vong
chính như sau:
- Hướng BẮC: gồm những tuyến: 352
độ 5, 7 độ 5, và 22 độ 5.
- Hướng ĐÔNG BẮC:
những tuyến: 37 độ 5, 52 độ 5, và 67 đô 5.
- Hướng ĐÔNG: gồm
những tuyến: 82 đô 5, 97 độ 5, và 112 độ 5.
- Hướng ĐÔNG NAM:
những tuyến: 127 độ 5, 142 độ 5, và 157 độ 5.
- Hướng NAM: gồm
những tuyến: 172 độ 5, 187 độ 5, và 202 độ 5.
- Hướng TÂY NAM:
những tuyến: 217 độ 5, 232 độ 5, và 247 độ 5.
- Hướng TÂY: gồm
những tuyến: 262 độ 5, 277 độ 5, và 292 độ 5.
- Hướng TÂY BẮC:
những tuyến: 307 độ 5, 322 độ 5, và 337 độ 5.
Tuy nhiên, nếu để ý
kỹ thì ta thấy tất cả những tuyến Tiểu không vong cuối cùng của mỗi hướng như
22 độ 5 của hướng BẮC, 67 độ 5 của hướng ĐÔNG BẮC, 112 độ 5 của hướng ĐÔNG...
cũng chính là những tuyến Đại không vong.
Cho nên trên thực
tế, những nhà có hướng phạm phải những tuyến Đại không vong bao giờ cũng kèm
thêm vấn đề phạm cả tuyến Tiểu không vong nữa. Chính vì vậy mà mức độ phát sinh
tai họa của chúng mới càng thêm mãnh liệt.
Ngoài 24 tuyến Tiểu
không vong chính ở trên, còn cần phải để ý đến những tuyến nằm gần khu vực
đường ranh giới giữa 2 sơn, nhưng cũng chia thành những trường hợp khác biệt
như sau:
1) Những tuyến nằm
ở phần giữa 2 sơn, nhưng 1 sơn thuộc Địa nguyên Long, 1 Sơn thuộc Thiên nguyên
Long (xin xem lại bài “24 sơn-hướng và Tam nguyên Long): thì tất cả những tuyến
nằm gần tuyến Tiểu không vong chính trong khoảng cách là 1 độ rưỡi - dù là bên
trái hay bên phải của nó – cũng đều bị coi là những tuyến Tiểu không vong.
Thí dụ: Hai sơn
NHÂM và TÝ của hướng BẮC được phân chia bởi tuyến vị 352 độ 5. Đó là tuyến Tiểu
không vong chính. Nhưng vì NHÂM thuộc Địa nguyên Long, còn TÝ thuộc Thiên
nguyên long, cho nên tất cả những tuyến nằm cách tuyến vị 352 độ 5 trong phạm
vị 1 độ 5 – dù là bên phải hay bên trái của nó – như các tuyến 351 độ, 352 độ,
353 độ, 354 độ cũng đều là những tuyến Tiểu không vong cả. Nhưng các tuyến như
350 độ 5, hoặc 354 độ 5 thì lại không còn được coi là những tuyến Tiểu không
vong nữa, vì đã cách tuyến Tiểu không vong chính hơn 1 độ 5 rồi.
Một điều cần nói
thêm là vì giữa Địa nguyên long với Thiên nguyên long trong cùng 1 hướng bao
giờ cũng có vấn đề trái nghịch âm-dương, nếu Thiên nguyên long là sơn âm thì
Địa nguyên long sẽ là sơn dương, và ngược lại, cho nên những tuyến Tiểu không
vong nằm giữa 2 sơn (hướng) này còn bị gọi là những tuyến “sai lạc âm-dương”
hoặc “âm-dương sai thố”.
2) Những tuyến nằm
ở phần giữa 2 sơn, nhưng 1 sơn thuộc Thiên nguyên Long, 1 sơn thuôc Nhân nguyên
Long: thì chỉ có tuyến vị chính giữa 2 sơn mới bị coi là tuyến Tiểu không vong
mà thôi. Tuy nhiên trên thực tế thì những tuyến Tiểu không vong này đều vô hại.
Lý do là vì trong cùng 1 hướng thì sơn thuộc Thiên nguyên Long bao giờ cũng
cùng âm-dương với sơn thuộc Nhân nguyên Long. Mà vì đã nằm trong cùng 1 hướng,
lại cùng 1 khí âm hoặc dương, nên dù có nằm chồng lên đường phân giới giữa 2
sơn cũng vẫn không sợ khí bị pha tạp hay hỗn loạn.
Cho nên nguyên tắc
chính của Huyền không vẫn là vấn đề thuần khí. Khí đã thuần thì có thể kiêm
nhiều, khí không thuần thì dù 1 độ cũng không kiêm, còn những tuyến vị Đại-Tiểu
không vong chỉ là những mức độ ấn định sự kiêm hướng sai lạc quẻ (Đại không
vong) hoặc âm-dương (Tiểu không vong) đã tới mức độ tối đa, cực kỳ hung hiểm
rồi vậy.
Thí dụ: Hai sơn TÝ
và QUÝ thuộc hướng BẮC được phân chia bởi tuyến vị 7 độ 5, nên trên lý thuyết
thì đó là tuyến Tiểu không vong chính. Nhưng vì TÝ là âm sơn, thuộc Thiên
nguyên Long; còn QUÝ cũng là âm sơn, thuộc Nhân nguyên Long. Giữa chúng không
có sự khác biệt về âm-dương (vì cùng là âm sơn) hay tính chất (cùng thuộc hướng
BẮC). Cho nên ngay cả những nhà có tuyến vị là 7 độ 5 (tức trùng với tuyến Tiểu
không vong) cũng không sao cả.
3) Những tuyến nằm
giữa 2 sơn, nhưng 1 sơn là Nhân nguyên long, 1 sơn là Địa nguyên Long: đây
chính là trường hợp của những tuyến Đại không vong đã nói ở phần trên.
Như vậy nếu xét kỹ
thì thật ra trên la bàn chỉ có 8 tuyến Đại không vong và 8 tuyến Tiểu không
vong chính mà thôi. Bên cạnh chúng còn có thêm 1 số tuyến nằm trong khoảng cách
1 độ 5 ở 2 bên cũng đều được xem là những tuyến vị Đại-Tiểu không vong cả. Còn
ngoài ra, những tuyến vị nằm giữa 2 sơn thuộc Thiên nguyên Long và Nhân nguyên
Long trên thực tế không phải là Không vong. Còn những tuyến nằm giữa 2 sơn
thuộc Nhân nguyên Long và Địa nguyên Long là trường hợp Đại không vong rồi vậy.
Xét về mức độ tác
hại thì những hướng Tiểu không vong cũng gây ra nhiều tai họa cho những ai sống
trong căn nhà đó, như gia đình đổ vỡ, ly dị, tài lộc hao tán, dễ bị thưa kiện,
hình ngục, người sống trong nhà cũng thường bất chính, hay vi phạm luật lệ,
phạm pháp hoặc trộm cắp, hung dữ, lại dễ thấy ma quỷ... Cho nên sách “Trạch vận
tân án” mới viết những nhà phạm tuyến Tiểu không vong (tức âm-dương sai thố)
thì thường là “tiến, thoái lưỡng nan, không tạo dựng nổi uy quyền, danh tiếng.
Lại chuốc kiện tụng, thị phi, trở thành bại cục (cách thất bại), hao tổn công
sức”.
Ngoài những tuyến
Đại-Tiểu không vong ở trên thì trong 1 số sách vở còn đề cập đến những đường
phân giới của 64 quẻ tiên thiên, và cũng xem những tuyến đó là Đại không vong.
Rồi gộp hết tất cả những tuyến đó, cộng với những tuyến Đại-Tiểu không vong
chính và gọi chúng là những tuyến “BẤT KHẢ LẬP” (tức những tuyến vị không thể
chọn để lập hướng nhà hay mộ).
Tuy nhiên, nếu xét
kỹ thì thấy những đường phân giới của 64 quẻ Tiên thiên thật ra cũng trùng với
những tuyến vị “Phân châm” hoặc “Phân kim” trên Tưởng bàn (tức 1 loại la bàn do
Tưởng đại Hồng làm ra), mà trong đó, cách tính để chia tuyến vị của 64 quẻ Tiên
Thiên như sau: lấy 64 quẻ chia cho 8 hướng, thì mỗi hướng có 8 quẻ. Mỗi hướng
tổng cộng có 45 độ, chia cho 8 quẻ thì mỗi quẻ chiếm 5 độ, còn dư 5 độ. Để phân
chia cho đồng đều, Tưởng đại Hồng xếp 5 quẻ tiên thiên vào phần giữa của mỗi
hướng (tỗng cộng là 40 độ). Còn khu vực tiếp giáp giữa mỗi hướng thì để chừa ra
mỗi bên là 2 độ 5 (tổng cộng là 5 độ). Khu vực này được coi là khu vực “xuất
quái” (ra khỏi quẻ hay hướng).
Như vậy, tổng cộng
độ số của 8 quẻ (40 độ) và khoảng trống ở gần ranh giới giữa 2 hướng (5 độ) là
45 độ, tức đã bao hàm hết 1 hướng. Nếu tính như vậy thì tất cả mọi tuyến vị
chính giữa của 24 sơn đều nằm trên đường phân giới của 64 quẻ Dịch.
Đó là lý do tại sao
có 1 số trường phái Phong thủy (nhất là Tam hợp phái) thường cho rằng tuyến vị
chính giữa của 24 sơn là những tuyến “Đại không vong”, cho nên khi lập hướng
nhà hay mộ thì họ thường tránh những tuyến vị đó, mà kiêm sang bên phải hoặc
trái 3 độ, chứ không dám lấy đơn hướng.
Đây là 1 sai lầm,
chẳng những vì họ đã không biết tới vấn đề hướng nhà phải thuần khí, mà còn có
thể kiêm không đúng độ số, vì không phải tọa-hướng nào cũng có thể kiêm 3 độ,
mà còn tùy thuộc vào những sơn mà chúng tọa lạc là âm hay dương.
Hơn nữa, hướng kiêm
3 độ cũng là lằn ranh giới giữa chính hướng và kiêm hướng, nên nếu kiêm không
cẩn thận, hướng đó có thể đã ra ngoài chính hướng và thuộc về kiên hướng, nên
có thể đang từ tốt biến thành xấu...
Ngoài ra, vì các
sách vở cổ xưa hoặc đã thất bản, hoặc cố tình không nói tới lý do tại sao lại
đem 64 quẻ Tiên thiên vào trong la bàn. Nhưng theo thiển ý của người viết thì
có lẽ chỉ là dùng để phụ đoán thêm tính chất của từng hướng nhà mà thôi (như
trường hợp Nhị thập bát tú...), chứ không phải mục đích là để chọn phương
hướng.
Chính vì vậy mà tuy
Tưởng đại Hồng vẫn đưa 64 quẻ Tiên thiên vào trong la bàn do ông chế tạo, nhưng
khi chọn hướng thì vẫn lấy đơn hướng (tức là đè lên đường phân giới của quẻ
Dịch). Điều này chứng tỏ đường phân giới của 64 quẻ Tiên thiên thật ra không có
giá trị gì về phương diên lập hướng cả.
Đối với những nhà
phạm tuyến Đại-Tiểu không vong tuy rằng rất xấu, nhưng nếu biết cách hóa giải
thì cũng có thể biến xấu thành tốt mà xử dụng được, chứ cũng không phải nhất
quyết vì chúng thuộc những tuyến "bất khả lập" nên hoàn toàn không xử
dụng được. Vấn đề này sẽ được nói trong 1 dịp khác.
Ngoài ra, đối với
trường hợp những nhà có tọa-hướng thuộc Thiên nguyên Long kiêm Nhân nguyên
Long, hoặc Nhân nguyên Long kiêm Thiên nguyên Long tuy có thể kiêm nhiều mà
không sợ phạm Không vong, nhưng vẫn phải kiêm đúng pháp độ, tùy theo tọa-hướng
thuộc sơn dương hay âm. Nếu thuộc sơn dương thì có thể kiêm tới 7 độ, nếu là
sơn âm thì chỉ có thể kiêm tới 6 độ mà thôi.
Phương Pháp Chọn Hướng
Nhà (Phần 5)
Thành môn
Trong việc chọn
tọa-hướng cho nhà ở (hay phần mộ), ngoài những vấn đề đã được nêu ra thì còn
cần để ý tới khu vực 2 bên phía trước như thế nào để có thể dùng bí quyết của
"Thành môn".
Thành môn, tức cổng thành, là nơi
ra, vào thành cũng là chỗ dẫn nước ra, vào ở phía dưới. Cho nên Thành môn chính
là cửa ngõ để vào huyệt, hoặc nơi thủy đến, thủy đi, thủy hội tụ ở 2 bên phía
trước. Đối với nhà cửa thì nếu khu vực đó có ngõ rẽ vào nhà hay ngã ba, ngã tư,
ao, hồ, biển, hoặc chỗ 2 dòng sông tụ hội... thì những nhà đó được xem như có
Thành môn.
Thành môn cũng được
chia ra làm 3 loại như sau:
1) Thành môn chính:
nằm ở những khu vực mà khi kết hợp với khu vực ở đầu hướng sẽ hợp thành những
số Tiên thiên như 1-6, 2-7, 3-8, 4-9.
Thí dụ: Căn nhà
hướng NAM, có ngõ vào nhà nằm ở khu vực phía ĐÔNG NAM. Vì ĐÔNG NAM thuộc quẻ
TỐN mang số 4, còn NAM thuộc quẻ LY mang số 9, hợp thành số Tiên thiên 4-9, nên
ngõ vào nhà đó được coi là Thành môn chính.
2) Thành môn phụ:
chỉ là những vị trí nằm bên cạnh đầu hướng, nhưng không có sự tương hợp thành
những số Tiên thiên như ở trên.
Thí dụ: Nhà hướng
NAM, nhưng có ngõ vào nhà ở khu vực TÂY NAM. Vì NAM là số 9, TÂY NAM là số 2,
giữa 2 khu vực này không có sự tương hợp thành số Tiên thiên, nên đây là Thành
môn phụ.
3) Thành môn ngầm:
ngoài Thành môn chính (được gọi là “Chính mã”) và Thành môn phụ (được gọi là
“tá mã”), còn có Thành môn ngầm, nhưng cũng được chia thành 2 loại như sau:
a) Khi an vận bàn
mà vận tinh Ngũ Hoàng tới 1 trong 2 phía bên cạnh đầu hướng. Nếu nơi đó có thủy
hay cửa khẩu, ngõ ra vào... thì cũng được coi là Thành môn.
Thí dụ: nhà tọa TÝ
hướng NGỌ (180 độ), nhập trạch trong vận 8, nên khi an vận bàn thì vận tinh Ngũ
Hoàng sẽ đến phía TÂY NAM. Nếu nơi này có ngã tư, ngõ vào nhà, ao, hồ... thì
được xem là Thành môn ngầm. Sở dĩ như thế là vì trong mỗi vận, khu vực có vận
tinh Ngũ Hoàng bao giờ cũng là khu vực của Linh Thần (xin xem lại bài “Chính
Thần và Linh Thần”), nên khi khu vực này có cổng, ngõ hay thủy khẩu thì được
xem như Linh thần đắc thủy, chủ đại vượng cho nhà cửa trong vận đó. Vì vậy nó
mới được xem như 1 loại Thành môn mà thôi.
-Khi các vận, sơn
hay hướng tinh tới 2 phía bên cạnh đầu hướng, mà chúng lại kết hợp với địa bàn
tại nơi đó thành các số Tiên thiên. Nếu khu vực đó có cổng, ngã ba, ao, hồ, núi
cao... thì cũng được xem như có Thành môn.
Thí dụ: nhà tọa
CANH, hướng GIÁP (tức hướng ĐÔNG, 75 độ), nhập trạch trong vận 8. Nếu an Vận
bàn thì vận tinh số 6 tới hướng. Bây giờ nếu muốn an Hướng bàn thì lấy số 6
nhập trung cung xoay nghịch (vì hướng GIÁP tương ứng với sơn TUẤT của số 6, là
sơn âm nên xoay nghịch – xin xem lại bài PHƯƠNG PHÁP LẬP TINH BÀN) thì số 3 đến
ĐÔNG BẮC. Vì ĐÔNG BẮC nằm bên cạnh khu vực đầu hướng của căn nhà, mà địa bàn
của nó là số 8, nên khi gặp hướng tinh số 3 tới sẽ tạo thành cặp số Tiên thiên
3-8. Nếu nơi này có thủy hay cổng, ngõ vào nhà thì được xem là có Thành môn.
Đối với Huyền không
Học, việc xác định Thành môn là 1 yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn phương
vị tọa hướng cho ngôi nhà hay phần mộ. Bởi vì như Thẩm trúc Nhưng nói:”Thành
môn là nơi then chốt để khí tiến vào huyệt”, hoặc như Bạch hạc Minh xem nó
“giống như yết hầu của con người”. Cho nên Thành môn chính là nơi nắm giữ vận
khí của chân long địa huyệt hay nhà cửa. Nếu nó tốt thì dù nhà cửa hay phần mộ
có gặp hướng xấu, hay bị hung khí xung sát cũng vẫn bình yên, hoặc có thể hóa
hung thành cát mà làm cho nhà đó vẫn vượng phát.
Riêng đối với những
căn nhà đã lập phương hướng đúng phép mà lại còn đắc Thành môn thì chẳng khác
nào áo gấm thêm hoa, tài lộc và nhân đinh sẽ hưng thịnh 1 thời. Cho nên sách
mới có câu:”Bí quyết Thành môn là cực tốt (tối vi lương), cất nhà, lập mộ thì
đại cát”.
Tuy nhiên, cách
dùng Thành môn không phải cứ hễ thấy ở 2 bên đầu hướng có cổng, ngã ba, ngã tư
hay sông nước là có thể xử dụng, mà còn phải theo những nguyên tắc căn bản sau
đây:
- Tọa-hướng nhà
phải đồng Nguyên long với khu vực có cổng, cửa hoặc sông nước ở 2 bên đầu
hướng. Điều này đã nói rõ trong bài “Phương pháp chọn hướng nhà (1)”, phần bàn
về vấn đề thuần khí (chỉ có sự khác biệt là với vấn đề thuần khí thì có thể lấy
được cả những cổng, ngõ, nơi có thủy... tại bất cứ khu vực nào, miễn là được
đồng nguyên với hướng; còn Thành môn thì chỉ lấy được ở 2 phía bên cạnh hướng
mà thôi).
* Thí dụ: nhà tọa
TÝ hướng NGỌ (180 độ), nhập trạch trong vận 8. Vì nhà này hướng NGỌ (tức hướng
NAM), nên khi chọn Thành môn thì chỉ có thể lấy ở khu vực 2 bên của đầu hướng,
tức là 2 phía ĐÔNG NAM và TÂY NAM. Do đó, nếu ở sơn TỐN thuộc phía ĐÔNG NAM,
hoặc sơn KHÔN thuộc phía TÂY NAM có cổng, ngõ hay thủy khẩu thì nhà đó có Thành
môn. Còn những khu vực THÌN, TỴ của ĐÔNG NAM, cũng như MÙI, THÂN của TÂY NAM
tuy cũng nằm ở 2 bên hướng, nhưng do không đồng nguyên với tọa-hướng nên không
thể lấy làm Thành môn.
- Khu vực của Thành
môn cũng phải đắc vượng khí của Phi tinh, có như thế mới hóa giải được khí xấu
nơi đầu hướng, hoặc làm cho khí nơi đầu hướng càng thêm tốt đẹp. Nhưng muốn
biết vượng khí có tới Thành môn hay không, thì không phải căn cứ vào Hướng tinh
tại đó để xác quyết, mà phải xem Thành môn nằm tại sơn nào (trong 24 sơn)? Sơn
đó trùng với sơn nào của vận tinh tới khu vực đó? Rồi mới đem vận tinh đó nhập
trung cung, xoay chuyển theo chiều thuận (hay nghịch) tùy theo sơn của vận tinh
đó là dương hay âm. Nếu số đến khu vực của Thành môn cũng tương đồng với đương
vận thì tức là có vượng khí đến Thành môn.
* Thí dụ: cũng lấy
nhà tọa TÝ hướng NGỌ ở trên. Nếu an vận bàn của vận 8 thì vận tinh số 5 đến TÂY
NAM, vận tinh số 7 đến ĐÔNG NAM. Vì phía TÂY NAM chỉ có sơn KHÔN có thể chọn
làm Thành môn, mà KHÔN thuộc dương nên lấy 5 nhập trung cung xoay thuận thì 2
đến KHÔN, là tử khí trong vận 8 nên không thể dùng (tuy nhiên, vì vận tinh 5
tới phía TÂY NAM tạo thành cách “Thành môn ngầm”, nên lại là 1 cách khác). Kế
đó, quay sang vận tinh số 7 ở ĐÔNG NAM. Vì chỉ có sơn TỐN mới có thể chọn làm
Thành môn, mà TỐN trùng với sơn DẬU của số 7, là sơn âm nên lấy 7 nhập trung
cung xoay nghịch thì 8 đến TỐN, là vượng khí của vận 8, nên nơi này có thể dùng
làm Thành môn. Vì vậy, nếu phương TỐN của nhà này mà có cổng, ngõ vào nhà, thủy
khẩu... thì tài lộc sẽ đại vượng.
Về mức độ tác dụng
của các loại Thành môn thì Thẩm trúc Nhưng thường cho rằng Thành môn chính có
tác dụng mạnh hơn Thành môn phụ, nhưng ông không nói gì tới hiệu lực của Thành
môn ngầm. Tuy nhiên nếu nhìn thì cũng có thể thấy là tác dụng của Thành môn
ngầm phải yếu hơn Thành môn phụ. Nhưng vì không phụ thuộc vào việc bảo vệ
nguyên khí cho tọa-hướng, nên Thành môn ngần không bị giới hạn trong phạm vi 1
sơn, mà có thể bao hàm hết cả 1 hướng.
Thí dụ: nhà tọa TÝ
hướng NGỌ trong vận 8, khu vực phía TÂY NAM có vận tinh số 5 đắc Thành môn
ngầm. Thành môn này có thể chiếm hết 3 sơn MÙI-KHÔN-THÂN của hướng TÂY NAM, chứ
không bị giới hạn trong 1 sơn như những Thành môn chính hay phụ, nhưng tác dụng
của nó cũng yếu hơn 2 loại Thành môn kia.
Ngoài ra, về thời
gian ảnh hưởng của Thành môn đối với 1 căn nhà hay 1 địa huyệt thì tùy theo
từng loại Thành môn mà sẽ rất lâu dài hay chỉ ngắn ngủi trong 1 vận. Điều này
sẽ được nói trong 1 dịp khác.
Phối hợp Phi tinh với
địa hình (loan đầu)
Ngoài những vấn đề
kể trên thì còn phải để ý đến địa hình bên ngoài xem có phù hợp với Phi tinh
hay không?
Nói địa hình (hay
loan đầu) phù hợp với Phi tinh tức là những nơi có thủy của sông, hồ, ao biển,
hoặc đường đi, sân rộng, đồng trống... phải nằm trùng với những nơi có sinh khí
hay vượng khí của Hướng tinh. Còn những nơi có núi đồi, gò cao, hay nhà cửa,
cây cối... thì phải nằm trùng với những khu vực có sinh khí hay vượng khí của
Sơn tinh.
Tuy nhiên, vì những
điều này đã được nói khá nhiều trong những bài trước đây như “VƯỢNG SƠN, VƯỢNG
HƯỚNG”, “THƯỢNG SƠN, HẠ THỦY”, “THU SƠN, XUẤT SÁT”... cho nên bạn đọc có thể
đọc kỹ những bài đó để am tường vấn đề phối hợp giữa loan đầu và Phi tinh.
Post a Comment